Xử
lý
phèn
luôn
là
mối
quan
tâm
lo
lắng
hàng
đầu
của
người
nuôi
bởi
những
tác
hại
mà
nó
mang
lại.
Phèn
khiến
tôm,
cá
còi
cọc,
chậm
lớn,
tỷ
lệ
sống
thấp,
gây
thiệt
hại
nghiêm
trọng
về
năng
suất
cũng
như
chất
lượng
sản
phẩm
thủy
sản.
Tác
hại
Với
ao
nuôi:
Độ
phèn
trong
ao
nuôi
tôm
cao
sẽ
khó
khăn
trong
việc
gây
màu
nước
do
tảo
phát
triển
chậm.
Ao
tôm
bị
phèn
sẽ
có
pH
thấp,
ngăn
cản
sự
khuếch
tán
của
Na+ và
K+ từ
ngoài
vào
trong
ảnh
hưởng
đến
quá
trình
tạo
vỏ
của
tôm.
Phèn
nhiều
sẽ
ảnh
hưởng
đến
sự
hoạt
hóa
các
enzyme.
Với
tôm
nuôi:
Ao
tôm
nhiễm
phèn
sẽ
làm
tăng
quá
trình
hô
hấp
của
tôm,
mất
nhiều
năng
lượng
khiến
tôm
chậm
phát
triển.
Trong TTCT,
khi
mà
hàm
lượng
phèn
cao
sẽ
làm
giảm
độ
pH
trong
nước
làm
cho
tôm
khó
lột
xác.
Khi
ao
tôm
bị
phèn
thì
hàm
lượng
Ca2+ và
Mg2+ sẽ
giảm
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
quá
trình
tạo
vỏ
trên
tôm,
dẫn
đến
hiện
tượng
mềm
vỏ.
Tôm
chậm
phát
triển,
màu
sắc
xám
đen.
Bón
vôi
là
một
trong
những
biện
pháp
kiểm
soát
phèn
trong
ao.
Ảnh:
ST
Biện
pháp
phòng
Chọn
địa
điểm
xây
dựng
ao
nuôi
ở
các
vùng
đất
ít
bị
nhiễm
phèn.
Nên
lót
bạt
đáy
ao
và
bờ
ao
để
tránh
hiện
tượng
rò
rỉ
phèn
trong
ao
nuôi.
–
Mỗi
năm,
sau
khi
thu
hoạch,
nên
kịp
thời
tháo
nước
để
phơi
đáy
ao,
cho
lớp
bùn
đen
tầng
đáy
ao
ôxy
hóa
chuyển
thành
màu
trắng.
Thời
gian
phơi
ao
không
dưới
một
tháng.
Sau
khi
phơi,
tiến
hành
ngâm
đáy
ao,
rửa
những
chất
có
hại
trong
ao.
Đối
với
ao
nuôi
bị
nhiễm
phèn
tiềm
tàng
trong
đất
thì
không
nên
phơi
ao
quá
lâu
vì
các
vết
nứt
lớn
sẽ
chứa
nhiều
ôxy
sẽ
ôxy
hóa
Pyrit
sắt
và
khi
cấp
nước
vào
chất
này
sẽ
được
giải
phóng
tạo
nên
phèn
đỏ
rất
khó
để
xử
lý.
–
Xử
lý
nguồn
nước
cấp
vào
thật
sạch,
nên
sử
dụng
kít
kiểm
tra
môi
trường
để
xem
có
hàm
lượng
sắt
trong
nước
cấp
không.
–
Trước
khi
thả
giống
khoảng
45
ngày,
nên
tháo
cạn
nước;
chỗ
trũng,
có
nước,
nên
dùng
TCCA
tạt
khắp
ao,
để
diệt
khuẩn
tôm,
cá,
cua,
tạp.
Sau
khi
diệt
chết
tôm,
cá,
cua
ba
ngày,
sử
dụng
vi
khuẩn
Bacillus
nồng
độ
cao
để
xử
lý,
hoạt
hóa
đáy
ao.
–
Phòng
hiện
tượng
nhiễm
lại
phèn,
nên
kết
hợp
sử
dụng
phương
pháp
nâng
cao
ôxy,
sử
dụng
vôi
nung,
cung
cấp
dinh
dưỡng,
sử
dụng
vi
khuẩn
quang
hợp
(EM).
Ngoài
ra,
trong
quá
trình
cải
tạo
ao,
cần
bổ
sung
canxi,
magie,
phosphor;
đây
cũng
là
một
phương
pháp
tốt.
Có
thể
sử
dụng
phương
pháp
nén
phèn
của
người
trồng
lúa
để
nén
phèn:
Dùng
canxi,
magie,
phosphor
5
kg/1.000
m3,
ao
đáy
đất
cát
sử
dụng
3,5
kg/1.000
m3.
Ao
đáy
cát
sử
dụng
2
kg/1.000
m3.
–
Khi
trời
sắp
mưa
thì
cần
giảm
lượng
thức
ăn
cho
ao
nuôi,
mưa
to
kéo
dài
thì
cần
ngừng
cho
ăn
chờ
đến
khi
ngớt
mưa.
Để
đảm
bảo
sức
đề
kháng
cho
tôm,
tránh
bị
mềm
vỏ
thì
nên
trộn
men
vi
sinh,
khoáng
chất
và
vitamin
vào
thức
ăn
tôm
nuôi
mỗi
ngày.
Định
kỳ
xiphong
đáy
ao
để
giảm
thải
lượng
hợp
chất
hữu
cơ
dư
thừa
dưới
đáy
ao.
Sau
mỗi
trận
mưa,
nước
mưa
có
chứa
axit
và
lượng
xì
phèn
trên
bờ
có
thể
trôi
xuống
ao
làm
giảm
pH.
Do
đó,
cần
dùng
Zeolite
để
keo
tụ
chất
bẩn,
sau
đó
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
để
khoáng
hóa
đáy
ao,
đồng
thời
dùng
vôi
dolomite
hòa
vào
nước
ngọt
24
giờ;
sau
đó
tạt
đều
xuống
ao
lúc
8
–
10
giờ
đêm,
liều
lượng
1,7
kg/100
m3 nước.
Rải
vôi
nông
nghiệp
quanh
bờ
ao
trước
khi
trời
mưa;
khi
mưa
to,
mực
nước
ao
nuôi
lên
cao,
cần
xả
bớt
nước
mặt
để
tránh
giảm
độ
mặn
đột
ngột
và
tràn
bờ,
vỡ
bọng,
cống,
kết
hợp
quạt
nước
để
tránh
hiện
tượng
phân
tầng
nước.
Biện
pháp
xử
lý
Bằng
bón
lân:
Khi
bón
lân
đáy
ao
sẽ
giúp
khử
Fe
giải
phóng
phospho
từ
đó
giúp
gây
màu
nước
trong
ao
tôm
dễ
dàng
hơn,
tuy
nhiên,
tảo
độc
trong
ao
sẽ
phát
triển
mạnh
gây
mất
cân
bằng,
vì
thế
cần
phải
xử
lý
tảo
sau
khi
đã
xử
lý
phèn
bằng
lân.
Bón
vôi:
Mục
đích
để
nâng
pH
đáy
ao,
khử
phèn
đồng
thời
tạo
hệ
đệm
trong
ao
nuôi
liều
lượng
15
–
20
kg/100
m2 vôi
được
rải
đều
xuống
đáy
và
bờ
ao.
Khi
bón
vôi
đá
hoặc
vôi
nóng
cần
phải
thực
hiện
trong
lúc
chiều
mát
sau
đó
cấp
nước
và
ao
ngay
hôm
sau,
không
nên
rải
vôi
và
phơi
ao
trong
thời
gian
quá
lâu.
Dùng
máy
đo
hoặc
quỳ
tím
để
đo
pH
đáy;
nếu
pH
vẫn
thấp
thì
nên
bón
thêm
vôi,
điều
chỉnh
pH
từ
7,5
trở
lên.
Sử
dụng
vi
sinh:
Đây
là
phương
pháp
mang
lại
hiệu
quả
rất
cao.
Bằng
cách
sử
dụng
các
loại
vi
khuẩn
có
khả
năng
phân
hủy
phèn
rải
đều
vào
ao
nuôi,
sau
3
–
5
ngày
vi
khuẩn
sẽ
phân
hủy
các
chất
gây
phèn
làm
cho
ao
nuôi
hết
phèn.
Ưu
điểm
của
phương
pháp
này
là
rất
tiết
kiệm,
vì
không
phải
xử
lý
phèn
lại
nhiều
lần,
hiệu
quả
mang
lại
rất
cao.
Sử
dụng
hóa
chất
EDTA:
EDTA là
tên
viết
tắt
của Ethylendiamin
Tetraacetic
Acid,
đây
là
một
loại
hóa
chất
được
ứng
dụng
lâu
đời
trong
NTTS
và
mang
lại
những
hiệu
quả
nhất
định
cho
người
nuôi.
EDTA
giúp
khử
các
kim
loại
nặng
trong
ao
nuôi
giúp
tôm
dễ
lột
xác.
Giảm
độ
nhờn,
váng
bọt,
làm
lắng
tụ
các
cặn
bã,
chất
lơ
lửng
trong
ao
nuôi.
Giảm
độ
cứng
của
nước,
ổn
định
độ
kiềm,
độ
pH
trong
ao
nuôi.
Giúp
hạ
phèn,
khử
phèn
trong
ao
nuôi,
cải
thiện
chất
lượng
nước.
Liều
lượng
sử
dụng
EDTA
là
1
kg
hòa
tan
với
nước
tạt
ao
sau
đó
tạt
cho
3.000
–
4.000
m3 nước
để
ngăn
phèn
ao
đất
nuôi
tôm,
đồng
thời
hạn
chế
hiện
tượng
độc
tố
có
ở
đáy
ao
nuôi.