EHP
làm
tôm
chậm
lớn
TS.
Trần
Hữu
Lộc,
Khoa
Thủy
sản
-
Trường
Đại
học
Nông
Lâm
Tp
Hồ
Chí
Minh
cho
biết,
bệnh
vi
bào
tử
trùng
EHP
được
phát
hiện
ở
Thái
Lan
vào
năm
2006
nhưng
tác
hại
của
vi
bào
tử
trùng
trên
tôm
chưa
được
chú
ý,
nhất
là
khi
Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(EMS/AHNPND)
hoành
hành
trên
diện
rộng
ở
Châu
Á.
Tuy
nhiên,
bệnh
EHP
vẫn
âm
thầm
dịch
chuyển
và
xâm
nhập
vào
các
nước.
Hiện
tại,
có
nhiều
nước
nuôi
tôm
lớn
trên
thế
giới
như
Trung
Quốc,
Việt
Nam,
Thái
Lan,
Malaysia,
Mexico
và
có
thể
cả
Ấn
Độ,
Indonesia
cũng
có
thể
đã
có
mầm
bệnh
EHP.
Triệu
chứng
của
bệnh
EHP
trên
tôm
thẻ
chân
trắng
không
rõ
ràng.
Khi
tôm
giống
bị
nhiễm
EHP,
thả
nuôi
trong
tháng
đầu
tiên
tôm
thường
vẫn
phát
triển
tương
đối
bình
thường
nhưng
sau
khi
tôm
đạt
trọng
lượng
khoảng
3-4
gram/con,
cũng
như
lượng
sinh
khối
tôm
trong
ao
tăng
dần
thì
tôm
cũng
chậm
lớn
dần,
rồi
có
thể
dừng
lớn
hẳn.
Tôm
nuôi
90-100
ngày
tuổi
vẫn
có
thể
chỉ
đạt
kích
cỡ
4-5
gram/con
(200-250
con/kg).
Nguyên
nhân
của
sự
chậm
lớn
là
do
vi
bào
tử
trùng
Enterocytozoon
hepatopenaei
ký
sinh
trong
tế
bào
gan
tụy
của
tôm.
Vi
bào
tử
trùng
này
ký
sinh
nội
bào
và
sử
dụng
dinh
dưỡng,
năng
lượng
dự
trữ
trong
gan
tụy
khiến
cho
tôm
nuôi
không
đủ
dinh
dưỡng
cho
sự
tăng
trưởng
và
lột
xác.
Khi
tôm
càng
ăn
nhiều
thức
ăn
trong
quá
trình
nuôi
thì
lượng
phân
thải
ra
cũng
càng
nhiều,
trong
khi
đó
bệnh
EHP
là
một
bệnh
lây
qua
đường
phân
-
miệng
điển
hình,
không
cần
ký
chủ
trung
gian.
Chính
vì
lý
do
đó
mà
khi
tôm
ăn
càng
nhiều
thì
mầm
bệnh
thải
ra
môi
trường
ngày
càng
nhiều
và
sẽ
gây
nhiễm
cho
các
con
tôm
trong
ao
cũng
như
làm
cho
mật
độ
vi
bào
tử
nhiễm
trong
gan
tụy
ngày
càng
nhiều,
đến
ngưỡng
tôm
không
thể
lớn
tiếp
được.
Phương
pháp
PCR
có
thể
phát
hiện
EHP
Nhiều
loại
vi
bào
tử
khác
nhau
gây
bệnh
cho
tôm
đòi
hỏi
phải
có
ký
chủ
trung
gian,
như
Agmasoma
đòi
hỏi
ký
chủ
trung
gian
trong
vòng
đời,
nhưng
Enterocytozoon
hepatopenaei
có
thể
lây
lan
trực
tiếp
từ
con
này
sang
con
khác.
Do
đó,
có
quan
ngại
rằng
cá
rô
phi
trong
hệ
thống
nuôi
kết
hợp
là
nguồn
gây
bệnh
EHP
là
chưa
đủ
cơ
sở
vững
chắc.
”Chúng
tôi
có
làm
nghiên
cứu
kiểm
tra
mẫu
cá
rô
phi
của
nhiều
ao
nuôi
trong
hệ
thống
kết
hợp
cũng
như
cá
rô
phi
giống
nhưng
chưa
thấy
trường
hợp
nào
cá
rô
phi
có
nhiễm
EHP.
Ngoài
ra,
nếu
đưa
cá
rô
phi
từ
các
trại
giống
ở
vùng
nuôi
nước
ngọt
về
nuôi
trong
hệ
thống
nước
lợ
thì
nguy
cơ
gây
bệnh
cho
tôm
từ
mầm
bệnh
trên
cá
rô
phi
là
rất
thấp”,
TS.
Lộc
khẳng
định.
Đối
với
bệnh
EHP
thì
việc
chuẩn
đoán
bệnh
sử
dụng
phương
pháp
mô
học
là
rất
khó
khăn
do
sự
biến
đổi
mô
học
trên
gan
tụy
là
không
rõ
ràng.
Việc
phát
hiện
ra
bào
tử
là
rất
khó
khăn
do
kích
thước
bào
tử
chỉ
khoảng
1-2
µm
lại
có
màu
gần
đồng
nhất
với
màu
nền
của
tế
bào
chất
nên
rất
khó
phát
hiện
khi
dùng
kính
hiển
vi
quang
học
để
quan
sát
tiêu
bản
mô.
Hiện
nay,
phương
pháp
sinh
học
phân
tử
là
công
cụ
mạnh
để
phát
hiện
ra
mầm
bệnh
vi
bào
tử
trùng.
Bằng
các
kỹ
thuật
PCR
có
thể
phát
hiện
EHP
trên
ao
nuôi
tôm
thương
phẩm,
tôm
giống.
Đối
với
trại
giống,
mầm
bệnh
có
thể
được
phát
hiện
từ
phân
tôm
bố
mẹ
và
các
thức
ăn
tươi
sống
cho
tôm
bố
mẹ
như
hàu,
dời,
mực;
từ
ấu
trùng
tôm
và
tôm
post.
Theo
TS.
Lộc,
một
nghiên
cứu
cho
thấy
một
tỷ
lệ
rất
cao
các
thức
ăn
tươi
như
hàu,
dời
và
mực
khai
thác
ở
khu
vực
Ninh
Thuận,
Khánh
Hòa
dương
tính
với
cả
vi
bào
tử
trùng
EHP.
Điều
này
cho
thấy
việc
sử
dụng
thức
ăn
tươi
sống
đánh
bắt
tại
khu
vực
lân
cận
trại
giống
hay
vùng
nuôi
tôm
gây
ra
nguy
cơ
cực
kỳ
lớn
về
an
toàn
sinh
học
và
dịch
bệnh.
Cách
tiếp
cận
và
khống
chế
bệnh
Theo
TS.
Trần
Hữu
Lộc,
cho
tới
thời
điểm
này
thì
chưa
có
phương
pháp
trị
EHP
cho
là
có
kết
quả
tốt
nhất
được
chứng
minh.
Do
đó,
việc
kiểm
tra,
kiểm
soát
mầm
bệnh
từ
tôm
giống
là
hết
sức
quan
trọng.
Ở
cơ
sở
nuôi
tôm,
công
tác
chuẩn
bị
ao
có
vai
trò
rất
quan
trọng
trong
việc
phòng
bệnh,
do
EHP
có
sức
chống
chịu
cực
tốt
đối
với
các
phương
pháp
khử
trùng
thông
thường
nên
rất
khó
để
loại
thải
mầm
bệnh
ra
khỏi
hệ
thống.
Có
nghiên
cứu
cho
rằng
EHP
có
thể
tồn
tại
sau
khi
đã
xử
lý
Chlorine
ở
100
ppm,
đồng
thời
cũng
có
khuyến
cáo
cho
rằng
nên
sử
dụng
vôi
nóng
(CaO)
xử
lý
ao
để
có
thể
đạt
độ
pH
đáy
ao
trong
quá
trình
cải
tạo
cao
hơn
11-12
để
làm
chết
mầm
bệnh
EHP.
Về
quản
lý
dịch
bệnh,
quan
trọng
hơn
cả
là
quản
lý
dịch
bệnh
từ
đầu
nguồn,
tức
là
từ
con
giống
và
sâu
xa
hơn
nữa
là
từ
con
giống
bố
mẹ.
Việc
chỉ
kiểm
soát
mầm
bệnh
đã
được
tổ
chức
OIE
đề
nghị
đối
với
tôm
biển
đã
để
một
lỗ
hổng
lớn
cho
việc
kiểm
soát
các
mầm
bệnh
mới
xuất
hiện,
trên
góc
độ
quản
lý
dịch
bệnh
trên
tôm
của
cả
thế
giới.
Ở
góc
độ
trại
tôm
giống,
ngoài
sự
kiểm
soát
thông
thường
với
các
mầm
bệnh
virus,
ta
phải
tập
trung
hơn
nữa
công
tác
an
toàn
theo
hướng
tích
cực
phòng
bệnh
vi
khuẩn
và
cả
ký
sinh
trùng.
Đối
với
sản
xuất
tôm
giống,
cần
có
sự
cân
nhắc
nguồn
tôm
bố
mẹ
nhập
khẩu
từ
các
nước
đang
có
mầm
bệnh
EHP.
Ngoài
ra,
nên
có
khu
cách
ly
thiết
kế
đúng
tiêu
chuẩn
và
có
sự
kiểm
soát
chặt
mầm
bệnh
do
virus,
EHP
trước
khi
có
thể
đưa
vào
sản
xuất.
Với
thức
ăn
tươi,
nên
kiểm
soát
mầm
bệnh
thật
kỹ,
không
nên
sử
dụng
thức
ăn
tươi
đánh
bắt
từ
khu
vực
gần
trại
giống,
vùng
nuôi,
cho
ăn
trực
tiếp.
Việc
sử
dụng
thức
ăn
tươi
nhập
khẩu
từ
các
nước
không
có
mầm
bệnh
và
không
có
nghề
nuôi
tôm
cũng
là
một
lựa
chọn
tốt
cho
thức
ăn
tôm
bố
mẹ.
Trong
hoàn
cảnh
sản
xuất
giống
hiện
tại,
các
trại
giống
nên
cân
nhắc
việc
thanh
trùng
thức
ăn
tươi
bằng
phương
pháp
Pasteur
hay
chiếu
xạ
Gramma.
Các
biện
pháp
kỹ
thuật
này
có
thể
làm
cho
tôm
bố
mẹ
giảm
khả
năng
sinh
sản
nhiều
trứng
và
ấu
trùng
nhưng
sẽ
giúp
tăng
độ
an
toàn
đối
với
trại
giống
cũng
như
trại
nuôi
sử
dụng
nguồn
tôm
giống
này.
Ngoài
ra,
việc
kiểm
soát
mầm
bệnh
bằng
phương
pháp
PCR
nên
được
coi
là
công
việc
xuyên
suốt
trong
sản
xuất
giống
để
kiểm
soát
yếu
tố
đầu
vào
là
tôm
bố
mẹ,
thức
ăn
tôm
bố
mẹ
cho
tới
đầu
ra
là
tôm
giống
xuất
bán.