Tiếp
tục
xu
hướng
giảm
của
QIV/2016,
XK
tôm
sang
Mỹ
trong
2
quý
đầu
năm
2017
giảm
7,5%
đạt
276,4
triệu
USD.
Tính
tới
15/7/2017,
XK
tôm
sang
thị
trường
này
đạt
306,5
triệu
USD;
giảm
5,3%
so
với
cùng
kỳ
năm
2016.
Do
giảm
NK
nên
Mỹ
đã
phải
nhường
vị
trí
số
1
cho
Nhật
Bản
và
giữ
vị
trí
thứ
4
về
NK
tôm
Việt
Nam.
XK
tôm
Việt
Nam
sang
Mỹ
nửa
đầu
năm
nay
có
chiều
hướng
đi
xuống
do
tác
động việc
Bộ
Thương
mại
Mỹ
(DOC)
tăng
thuế
chống
bán
phá
giá
trong
quyết
định
sơ
bộ
của
đợt
xem
xét
hành
chính
lần
thứ
11
(POR11),
đồng
USD
sụt
giá
do
tác
động
từ
các
chính
sách
mới
liên
quan
tới
bảo
hộ
sản
xuất
trong
nước
của
Tổng
thống
Donald
Trump.
Bên
cạnh
đó,
sự
cạnh
tranh
mạnh
mẽ
từ
Ấn
Độ
(đối
thủ
cạnh
tranh
chính
của
Việt
Nam
trên
thị
trường
Mỹ)
cũng
phần
nào
làm
giảm
XK
tôm
Việt
Nam
sang
Mỹ.
Theo
số
liệu
của
Bộ
Nông
nghiệp
Hoa
Kỳ
(USDA),
năm
2016,
Mỹ
NK
605.711
tấn
tôm,
trị
giá
5,7
tỷ
USD;
tăng
3%
về
khối
lượng
và
4%
về
giá
trị
so
với
năm
2015.
Sáu
tháng
đầu
năm
2017,
Mỹ
tiếp
tục
tăng
NK
tôm
với
287.255
tấn,
trị
giá
2,8
tỷ
USD;
tăng
9%
về
khối
lượng
và
15%
về
giá
trị
so
với
cùng
kỳ
năm
2016.
Tôm
thịt
nguyên
liệu
đông
lạnh
(HS0306170040)
là
sản
phẩm
được
NK
nhiều
nhất
vào
Mỹ.
Ấn
Độ
là
nhà
cung
cấp
lớn
nhất
mặt
hàng
này
cho
Mỹ,
tiếp
đó
là
Indonesia
và
Việt
Nam.
Ấn
Độ
tăng
mạnh
về
khối
lượng
và
giá
trị
cung
cấp
mặt
hàng
này
lần
lượt
là
56%
và
62%
trong
khi
Indonesia
giảm
3%
về
khối
lượng
nhưng
tăng
4%
về
giá
trị.
Việt
Nam
đứng
thứ
3
giảm
32%
về
khối
lượng
và
30%
về
giá
trị.
Tôm
thịt
chế
biến
đông
lạnh
(HS1605211030)
là
sản
phẩm
được
NK
nhiều
thứ
hai
vào
Mỹ.
Thái
Lan
là
nhà
cung
cấp
lớn
nhất,
Việt
Nam
và
Indonesia
lần
lượt
đứng
thứ
hai
và
ba.
Thái
Lan
giảm
3%
về
khối
lượng
nhưng
tăng
8%
về
giá
trị
cung
cấp
mặt
hàng
này
cho
Mỹ.
Việt
Nam
đứng
thứ
hai
giảm
3%
và
5%
lần
lượt
về
khối
lượng
và
giá
trị.
Indonesia
đứng
thứ
ba
tăng
lần
lượt
14%
và
18%.
Ấn
Độ
và
Trung
Quốc
đứng
ở
các
vị
trí
tiếp
theo
tăng
mạnh
XK
mặt
hàng
này
sang
Mỹ
với
mức
tăng
trưởng
3
con
số.
Sáu
tháng
đầu
năm
2017,
Ấn
Độ
là
nguồn
cung
tôm
lớn
nhất
cho
Mỹ,
chiếm
trên
30,5%
tổng
giá
trị
NK
tôm
vào
Mỹ.
Tiếp
đó
Indonesia
chiếm
20,5%;
Thái
Lan
chiếm
11,5%,
Ecuador
10,8%
và
Việt
Nam
đứng
thứ
5
chiếm
gần
9%.
Trong
tốp
5
nguồn
cung
chính
cho
Mỹ,
NK
tôm
vào
Mỹ
từ
Ấn
Độ
tăng
trưởng
tốt
nhất
59%
và
64%
lần
lượt
về
khối
lượng
và
giá
trị;
NK
từ
Việt
Nam
giảm
nhiều
nhất
lần
lượt
và
17%
và
16%.
Việt
Nam,
Ấn
Độ,
Thái
Lan,
Indonesia
và
Ecuador
là
các
nguồn
cung
cấp
tôm
chính
cho
thị
trường
Mỹ
trong
những
tháng
đầu
năm
nay
và
hầu
hết
các
nước
đều
bị
Mỹ
áp
thuế
chống
bán
phá
giá.
Thế
nhưng,
do
mức
thuế
chống
bán
phá
giá
Mỹ
áp
cho
tôm
Việt
Nam
cao
nên
sức
cạnh
tranh
tôm
của
Việt
Nam
ở
thị
trường
Mỹ
kém
hơn.
Mới
đây,
DOC
quyết
định dựa
trên
mức
lương
ở
Ấn
Độ
để
làm
quy
chiếu
so
sánh
với
Việt
Nam
thay
vì
dùng
mức
lương
ở
Bangladesh
như
trước
đây.
Quyết
định
này
cũng
làm
tăng
thuế
CBPG
đối
với
tôm
Việt
Nam.
Mặc
dù
thuế
CBPG
cao
nhưng
do
nhu
cầu
tiêu
thụ
tôm
của
thị
trường
Mỹ
tăng
nửa
cuối
năm
nay,nên
XK
tôm
Việt
Nam
sang
Mỹ
giai
đoạn
này
dự
kiến
tăng
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái
mặc
dù
tốc
độ
tăng
trưởng
không
cao.
Do
khó
khăn
trong
XK
sang
Mỹ,
DN
nên
đa
dạng
hóa
thị
trường
để đảm
bảo
kim
ngạch
XK
ổn
định.
DN
cũng
cần
đảm
bảo
tuân
thủ
quy
định
của
Mỹ
về
chất
lượng
sản
phẩm,
quy
trình
sản
xuất
đồng
thời
chủ
động
phối
hợp
tích
cực
với
cơ
quan
Nhà
nước
trong
đàm
phán
tháo
gỡ
thị
trường
và
đấu
tranh
với
những
quy
định
của
Mỹ
có
tác
động
bất
lợi
tới
XK
của
Việt
Nam
để
từ
đó
duy
trì
kim
ngạch
XK
sang
thị
trường
chủ
lực
này.

Theo
Vasep