Vừa
qua,
tại
TP.HCM,
Tổng
cục
Thủy
sản
tổ
chức
hội
nghị
giao
ban
Triển
khai
kế
hoạch
nuôi
tôm
nước
lợ
năm
2016
các
tỉnh
Nam
bộ,
do
Phó
Tổng
cục
trưởng
Nguyễn
Huy
Điền
chủ
trì.
Tham
dự
có
đại
diện
các
đơn
vị
thuộc
Tổng
cục
Thủy
sản,
Cục
Thú
y,
Trung
tâm
Khuyến
nông
Quốc
gia,
Sở
NN-PTNT
TP.HCM,
Sở
NN-PTNT,
Chi
cục
Thủy
sản,
Chi
cục
Thú
y
các
tỉnh
đồng
bằng
sông
Cửu
Long,
các
doanh
nghiệp
sản
xuất
tôm
giống...
Theo
báo
cáo
của
Tổng
cục
Thủy
sản,
2015
là
năm
người
nuôi
tôm
gặp
nhiều
khó
khăn
như
giá
tôm
nguyên
liệu
giảm
20
-
30%
so
với
2014,
trong
khi
đó
giá
vật
tư
đầu
vào
không
giảm;
việc
quản
lý
tôm
giống
chưa
tốt,
các
cơ
sở
sản
xuất
không
tuân
thủ
quy
định
về
bao
bì,
nhãn
mác,
một
số
cơ
sở
sản
xuất
sử
dụng
nhiều
thương
hiệu
và
thay
đổi
liên
tục
nên
người
mua
giống
không
phân
biệt
được
chất
lượng
và
gây
khó
khăn
cho
cơ
quan
quản
lý.
Năm
2015
cả
nước
có
1.750
cơ
sở
sản
xuất
giống
tôm
nước
lợ,
sản
xuất
trên
80
tỷ
tôm
giống,
cơ
bản
đáp
ứng
nhu
cần
nuôi
của
người
dân
(trong
đó
tôm
sú
20
tỷ
con,
tôm
thẻ
chân
trắng
60
tỷ
con).
Diện
tích
thả
nuôi
cả
nước
đạt
678.750ha,
bằng
100,8%
so
với
cùng
kỳ
2014.
Trong
đó
diện
tích
nuôi
tôm
sú
là
593.100ha
(bằng
102,2%
so
với
2014);
tôm
thẻ
chân
trắng
85.604ha
(bằng
89,5%
so
với
2014).
Sản
lượng
tôm
thu
hoạch
đạt
618,731
tấn
(bằng
113,0%
so
với
cùng
kỳ
2014).
Trong
đó
sản
lượng
tôm
sú
268,075
tấn
(bằng
112,3%
so
với
cùng
kỳ),
tôm
thẻ
chân
trắng
350,693
tấn
(bằng
113,7%
so
với
cùng
kỳ).
ĐBSCL
chiếm
72,1%
diện
tích
nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng,
tương
đương
72,7%
về
sản
lượng;
tôm
sú
chiếm
94%
về
diện
tích,
tương
đương
94,2%
về
sản
lượng.
Năm
2016
do
hạn
hán
độ
mặn
cao
nên
diện
tích
thả
nuôi
2
tháng
đầu
năm
đạt
thấp
hơn
so
với
cùng
kỳ
năm
2015,
bà
con
đang
chờ
điều
kiện
thích
hợp
sẽ
tiến
hành
thả
giống.
Công
tác
quan
trắc
môi
trường
phục
vụ
nuôi
trồng
thủy
sản
và
phòng
trừ
dịch
bệnh,
hiện
nay
đã
có
31/63
tỉnh
có
hoạt
động
quan
trắc
môi
trường.
Một
số
tỉnh
có
kinh
phí
hoạt
động
quan
trắc
nhưng
thực
hiện
chưa
tốt.
Quan
trắc
cảnh
báo
là
vấn
đề
rất
quan
trọng,
mục
đích
là
phòng
xa,
ngăn
ngừa,
không
để
“có
bệnh
rồi
mới
chữa”,
nhiều
tỉnh
còn
coi
nhẹ.
Kết
quả
kiểm
tra
các
chế
phẩm
sinh
học
có
tỉnh
50
-
60%
mẫu
không
đạt
yêu
cầu,
có
tỉnh
80
-
90%
không
đạt
yêu
cầu.
Kiểm
tra
60
mẫu
tôm
giống
có
68%
số
mẫu
kiểm
tra
có
mầm
bệnh
EMS
(bệnh
hoại
tử
gan
tụy);
20%
mẫu
kiểm
tra
có
mầm
bệnh
vi
bào
tử
trùng
(bệnh
còi).
Đây
là
kết
quả
rất
đáng
lo
ngại
nên
các
cơ
quan
quản
lý
cần
tăng
cường
kiểm
tra
để
hạn
chế
thiệt
hại
cho
bà
con
nuôi
tôm.
Tại
hội
nghị,
các
đại
biểu
đã
thảo
luận
những
giải
pháp
cần
thực
hiện
để
chuẩn
bị
tốt
cho
vụ
nuôi
tôm
2016
đạt
hiệu
quả
cao.
Theo
đó,
các
địa
phương
cần
thực
hiện
tốt
một
số
nhiệm
vụ
sau:
1.
Về
quy
hoạch:
Các
địa
phương
rà
soát,
bổ
sung
quy
hoạch
phát
triển
nuôi
tôm
nước
lợ
phù
hợp
với
quy
hoạch
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
của
tỉnh;
Tuân
thủ
điều
kiện
sản
xuất
đảm
bảo
an
toàn
thực
phẩm,
tạo
mối
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
nuôi
trồng,
tiêu
thụ
và
chế
biến.
2.
Về
quản
lý
con
giống:
Tiếp
tục
kiểm
tra,
truy
xuất
nguồn
gốc
tôm
thẻ
chân
trắng
bố
mẹ
tại
các
nước
xuất
khẩu
vào
Việt
Nam;
Các
địa
phương
kiểm
tra,
giám
sát
chặt
chẽ
điều
kiện
và
chất
lượng
tôm
giống
của
các
cơ
sở
sản
xuất,
kể
cả
tôm
giống
lưu
thông
trên
thị
trường.
3.
Về
kỹ
thuật:
-
Phát
triển
các
vùng
nuôi
tôm
công
nghiệp
tập
trung
sử
dụng
công
nghệ
cao,
nuôi
tiết
kiệm
nước,
giảm
thiểu
tối
đa
việc
xả
thải
gây
ô
nhiễm
môi
trường
và
dịch
bệnh.
Nuôi
tôm
công
nghiệp
tại
Sóc
Trăng.
(Ảnh:
Hữu
Đức)
-
Bám
sát
lịch
thời
vụ,
lựa
chọn
con
giống
có
nguồn
gốc
rõ
ràng,
được
kiểm
dịch
và
có
chất
lượng
tốt;
thực
hiện
gièo
giống
(20
-
30
ngày)
trước
khi
thả;
thả
giống
ở
thời
điểm
nhiệt
độ
nước
dưới
30
độ
C
(sáng
sớm
hoặc
chiều
mát);
mật
độ
nuôi
hợp
lý
(tôm
thẻ
40
-
60
con/m2;
tôm
sú
10
-
15
con/m2).
Độ
mặn
khi
thả
tôm
giống
tốt
nhất
là
từ
15
-
20
phần
nghìn,
nếu
độ
mặn
cao
trên
30
phần
nghìn
rất
dễ
xẩy
ra
dịch
bệnh.
-
Tăng
cường
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
trong
quản
lý
nước,
không
sử
dụng
thuốc
kháng
sinh
để
phòng
bệnh.
4.
Về
phòng
trị
bệnh:
Đẩy
mạnh
công
tác
quan
trắc
cảnh
báo
môi
trường,
phòng
trừ
dịch
bệnh,
thực
hiện
tốt
"3
không":
Không
giấu
dịch;
không
xả
nước
thải
chưa
qua
xử
lý
ra
môi
trường;
xử
lý
tôm
chết,
tôm
bệnh
đúng
quy
định.
5.
Về
thức
ăn
và
chất
xử
lý
cải
tạo
môi
trường:
Tổ
chức
giám
sát
chất
lượng
thức
ăn
từ
khâu
sản
xuất
đến
sử
dụng
tại
cơ
sở
nuôi,
kể
cả
thức
ăn
nhập
khẩu;
Tăng
cường
kiểm
tra
phân
tích
mẫu
(thức
ăn
và
chất
xử
lý
cải
tạo
môi
trường…)
để
loại
bỏ
những
sản
phẩm
kém
chất
lượng,
sản
phẩm
không
có
trong
danh
mục
và
xử
lý
nghiêm
theo
quy
định,
công
khai
trên
các
phương
tiện
thông
tin
đại
chúng
những
cơ
sở
sản
xuất
và
bán
sản
phẩm
gian
dối
gây
thiệt
hại
cho
người
dùng.
6.
Về
khoa
học
công
nghệ
và
khuyến
ngư:
Tiếp
tục
nghiên
cứu
để
có
biện
pháp
phòng
trị
hữu
hiệu
bệnh
mới
phát
sinh
như
bệnh
vi
bào
tử
trùng;
hệ
số
sử
dụng
thức
ăn
phù
hợp,
chất
lượng
con
giống…
Xây
dựng
mô
hình
phát
triển
tôm
lúa,
tôm
rừng,
áp
dụng
rộng
rãi
Quy
phạm
thực
hành
nuôi
trồng
thủy
sản
tốt
VietGAP,
đẩy
mạnh
liên
kết
theo
chuỗi
giá
trị
đạt
hiệu
quả
cao
và
bền
vững.
Theo
Cục
Thú
y,
năm
2015
cả
nước
có
52.000ha
tôm
nuôi
bị
thiệt
hại,
dịch
bệnh,
trong
đó
có
16.000ha
bị
dịch
bệnh
do
vi
khuẩn,
virus…
(tương
đương
30,8%);
34.000ha
bị
thiệt
hại
do
môi
trường
(tương
đương
65,4%);
2000ha
do
các
nguyên
nhân
khác
(tương
đương
3,8%).
Theo
Nông
Nghiệp
Việt
Nam