Xây
dựng
chuỗi
giá
trị
sản
phẩm
cá
tra
để
vượt
qua
khủng
hoảng,
nuôi
là
khâu
đầu
tiên
có
vị
trí
quan
trọng
nhất.
Bởi
chất
lượng
cá
tra
nguyên
liệu
có
giá
trị
quyết
định
toàn
chuỗi,
nếu
xảy
ra
sai
lầm
từ
đây
sẽ
không
thể
sửa
chữa
về
sau.
Trong
nuôi,
Nghị
định
36
của
Chính
phủ
đặt
vấn
đề
quy
hoạch
lên
hàng
đầu.
Chưa
theo
quy
hoạch
Địa
phương
nuôi
cá
tra
diện
tích
lớn
nhất
ĐBSCL
là
tỉnh
Đồng
Tháp.
Theo
quyết
định
phê
duyệt
quy
hoạch
nuôi
cá
tra
của
Bộ
trưởng
Bộ
NN&PTNT
ngày
11/9/2014,
tỉnh
Đồng
Tháp
năm
2015
có
diện
tích
mặt
nước
1.500
ha,
sản
lượng
370.000
tấn;
đến
năm
2020,
diện
tích
2.000
ha,
sản
lượng
500.000
tấn.
Thế
nhưng,
số
liệu
của
Sở
Công
thương
tỉnh
Đồng
Tháp,
đến
hết
năm
2014,
diện
tích
nuôi
cá
tra
là
2.036
ha,
sản
lượng
373.232
tấn.
Như
vậy,
diện
tích
đã
vượt
quy
hoạch
phê
duyệt
cho
năm
2020,
sản
lượng
vượt
quy
hoạch
phê
duyệt
cho
năm
2015.
Hơn
thế,
cũng
theo
Sở
Công
thương,
trong
diện
tích
đã
nuôi
cuối
năm
2014,
có
930
ha
ngoài
vùng
quy
hoạch,
chiếm
gần
45,7%
tổng
diện
tích
nuôi.
Cuối
tháng
3/2015,
đoàn
giám
sát
của
Thường
trực
HĐND
tỉnh
Đồng
Tháp
kiểm
tra
tình
hình
quản
lý
và
sử
dụng
đất
công
ở
một
số
huyện,
phát
hiện
việc
cho
thuê
đất
công
nuôi
cá
tra
ngoài
quy
hoạch
khá
phổ
biến.
Ở
huyện
Tam
Nông
có
270
ha
đất
tại
xã
Tân
Công
Sính
đang
liên
kết
nuôi
cá
tra
sai
quy
hoạch;
ở
huyện
Cao
Lãnh
cũng
có
gần
300
ha
đất
nuôi
cá
sai
quy
hoạch.
Hậu
quả
của
nuôi
cá
tra
không
theo
quy
hoạch,
Sở
Công
thương
tỉnh
Đồng
Tháp
thẳng
thắn
nhìn
nhận:
"Gây
ra
tình
trạng
lúc
thừa,
lúc
thiếu
nguyên
liệu;
chất
lượng,
giá
cả
không
ổn
định".
Một
số
doanh
nghiệp
đã
chủ
động
nguồn
nguyên
liệu
cá
tra
-
Ảnh:
Ngọc
Trinh
Hiệp
hội
Cá
tra
Việt
Nam
cho
biết,
vài
năm
gần
đây
có
sự
thay
đổi
trong
nuôi
cá
tra,
dịch
chuyển
từ
hộ
cá
thể
sang
hợp
tác
với
công
ty
và
trang
trại.
Một
số
doanh
nghiệp
chế
biến
xuất
khẩu
cá
tra
đã
liên
kết
với
hộ
nuôi
để
bao
tiêu
sản
phẩm,
số
khác
tự
tổ
chức
vùng
nuôi.
Nhiều
doanh
nghiệp
có
cả
nhà
máy
chế
biến
thức
ăn
cho
cá
tra.
Như
thế,
các
doanh
nghiệp
đang
phát
triển
hình
thức
khép
kín
từ
sản
xuất
đến
chế
biến
xuất
khẩu
nhằm
tăng
khả
năng
cạnh
tranh,
thu
lợi
nhuận
cao.
Diễn
biến
này
tạo
thêm
động
lực
thúc
đẩy
ngành
cá
tra
vượt
qua
sự
tự
phát
manh
mún,
tuy
nhiên
cũng
tạo
sức
ép
điều
chỉnh
quy
hoạch.
Vẫn
ở
tỉnh
Đồng
Tháp,
trong
năm
2014,
UBND
huyện
Tân
Hồng
có
văn
bản
đề
nghị
Sở
NN&PTNT
bổ
sung
hơn
36
ha
vùng
nuôi
cá
tra
của
Công
ty
TNHH
Hùng
Cá
(Công
ty
Hùng
Cá)
vào
quy
hoạch.
Diện
tích
ấy
gồm
hai
khu
nuôi
ở
xã
Tân
Công
Chí,
một
khu
nuôi
ở
xã
Tân
Hộ
Cơ,
đều
đã
đào
ao
nuôi
cá
tra
nhưng
hơn
một
nửa
chưa
chuyển
mục
đích
đất
trồng
lúa
sang
nuôi
trồng
thủy
sản.
Doanh
nghiệp
thiếu
vốn
Phát
triển
sản
xuất
khép
kín
cần
vốn
rất
lớn
nhưng
nhiều
doanh
nghiệp
lại
chưa
nâng
cao
được
năng
lực
nên
càng
khó
khăn
về
vốn.
Không
ít
doanh
nghiệp
vẫn
trong
vòng
vây
nợ
xấu,
cái
khó
bó
cái
khôn,
lúng
túng
phương
án
sản
xuất
kinh
doanh,
vốn
ngân
hàng
không
tiếp
cận
được
nên
kết
quả
là
hoạt
động
cầm
chừng
hoặc
ngừng
hoạt
động.
Chi
nhánh
Ngân
hàng
Nhà
nước
tỉnh
Đồng
Tháp
cho
biết,
năm
2011
có
2.018
hộ
dân
dư
nợ
nuôi
cá
tra,
thì
đến
năm
2014
chỉ
còn
1.326
hộ,
giảm
34,3%.
Trong
lúc,
số
doanh
nghiệp
dư
nợ
nuôi
và
chế
biến
cá
tra
vẫn
là
32.
Còn
tổng
vốn
cho
vay
nuôi
và
chế
biến
cá
tra
năm
2014
gấp
hơn
2,4
lần
năm
2011.
Nhiều
doanh
nghiệp
vẫn
đang
thiếu
vốn
để
sản
xuất
cá
tra
khép
kín
-
Ảnh:
Lê
Hoàng
Vũ
Kim
ngạch
xuất
khẩu
cá
tra
của
tỉnh
Đồng
Tháp
năm
2014
là
541
triệu
USD,
tăng
13%
so
với
475
triệu
USD
của
năm
2011.
Rõ
ràng,
kim
ngạch
xuất
khẩu
tăng
chưa
tương
ứng
với
đầu
tư
nuôi
trồng.
Nguyên
nhân
chính
ở
nhiều
doanh
nghiệp
chế
biến
hoạt
động
kém
hiệu
quả.
Theo
Sở
Công
thương,
các
doanh
nghiệp
chế
biến
chỉ
hoạt
động
được
gần
40%
công
suất
vào
năm
2011,
và
dù
tăng
lên
thì
đến
năm
2014
cũng
mới
đạt
50,85%.
Đến
cuối
năm
2014,
trong
20
doanh
nghiệp
chế
biến,
có
9
doanh
nghiệp
chỉ
hoạt
động
được
19,42%
công
suất,
nên
càng
suy
yếu.
Chi
nhánh
Ngân
hàng
Nhà
nước
tỉnh
Đồng
Tháp
đánh
giá,
từ
năm
2012,
hộ
dân
và
doanh
nghiệp
gặp
khó
trong
vay
vốn,
trả
nợ
ngân
hàng,
nợ
xấu
tăng.
Tình
trạng
phá
vỡ
hợp
đồng
mua
bán
giữa
doanh
nghiệp
và
người
nông
dân
diễn
ra
ngày
càng
nhiều.
Thực
trạng
ấy
cho
thấy,
xu
hướng
chuyển
dịch
sản
xuất
từ
hộ
nuôi
cá
thể
sang
nuôi
gia
công
cho
doanh
nghiệp,
dù
đáng
khích
lệ
thì
cũng
hoàn
toàn
chưa
thuận
chèo
mát
mái.
Quá
trình
thực
hiện
quy
hoạch
sẽ
còn
nhiều
khó
khăn,
cả
doanh
nghiệp
và
người
nuôi
còn
phải
vượt
qua
nhiều
thách
thức,
trở
ngại
về
năng
lực,
tâm
lý
và
cả
quản
trị.
Rõ
ràng,
thực
hiện
quy
hoạch
không
phải
muốn
là
được,
quy
hoạch
dù
đã
được
phê
duyệt
nhưng
để
đi
đến
kết
quả
thực
tiễn
còn
lắm
gian
nan.
Những
tia
hy
vọng
Để
tháo
gỡ
khó
khăn
về
vốn
cho
ngành
cá
tra,
giữa
năm
2014,
các
ngân
hàng
thương
mại
đã
thí
điểm
cho
vay
theo
chuỗi
giá
trị
cá
tra
với
hai
doanh
nghiệp
ở
ĐBSCL.
Đó
là
Công
ty
Hùng
Cá
ở
tỉnh
Đồng
Tháp
và
Công
ty
TNHH
Sản
xuất
thương
mại
dịch
vụ
Thuận
An
ở
tỉnh
An
Giang.
Đến
ngày
31/12/2014,
ngân
hàng
thương
mại
đã
giải
ngân
cho
Công
ty
Hùng
Cá
1.401,75
tỷ
đồng,
cho
Công
ty
TNHH
Sản
xuất
thương
mại
dịch
vụ
Thuận
An
235
tỷ
đồng.
Kết
quả
bước
đầu
ở
Công
ty
Hùng
Cá.
Hợp
đồng
với
hộ
nông
dân
nuôi
cá
tra
theo
hai
hình
thức:
hợp
đồng
tay
ba
và
hợp
đồng
liên
kết.
Hợp
đồng
tay
ba
thực
hiện
giữa
Công
ty
Hùng
Cá
với
hộ
nuôi
và
doanh
nghiệp
bán
thức
ăn
thủy
sản;
thức
ăn
được
cung
cấp
cho
hộ
nuôi
và
Công
ty
Hùng
Cá
bao
tiêu
cá
tra
nguyên
liệu
theo
giá
thị
trường;
khi
thu
hoạch
mới
thanh
toán
tiền
thức
ăn.
Còn
hợp
đồng
liên
kết
nuôi
cá,
Công
ty
Hùng
cá
đầu
tư
ao
và
toàn
bộ
chi
phí,
kỹ
thuật;
hộ
nông
dân
chịu
trách
nhiệm
nuôi;
chia
lời
theo
tỷ
lệ
thỏa
thuận.
Hình
thức
thứ
nhất,
hợp
đồng
với
20
hộ
dân,
ước
chia
lãi
một
năm
cho
một
hộ
hơn
1
tỷ
đồng.
Hình
thức
thứ
hai,
liên
kết
với
306
hộ,
ước
một
năm
một
hộ
được
hơn
400
triệu
đồng.
Đến
hết
năm
2014,
Công
ty
Hùng
Cá
đã
trả
được
vốn
vay
hơn
355
tỷ
đồng.
Đánh
giá
của
ngành
ngân
hàng:
"Cái
được
lớn
nhất
là
người
dân
không
phải
lo
về
nguồn
vốn
đầu
tư
con
giống,
thức
ăn,
thuốc
thú
y…
và
nhất
là
đầu
ra
của
con
cá
do
doanh
nghiệp
bao
tiêu
sản
phẩm
khi
thu
hoạch.
Qua
đó
thúc
đẩy
khu
vực
nông
nghiệp
nông
thôn
phát
triển
mạnh
mẽ,
bền
vững
hơn
trong
thời
gian
tới".
Vấn
đề
ở
đây
là
khi
thúc
đẩy
được
mối
liên
kết
bền
chặt
cùng
có
lợi
giữa
người
nuôi
cá
tra
và
doanh
nghiệp
chế
biến
thì
quy
hoạch
cũng
được
thực
hiện
tốt
hơn
để
nâng
cao
chất
lượng
cá
tra.
Theo
khảo
sát
của
ngành
công
thương
và
ngân
hàng
tỉnh
Đồng
Tháp,
đa
số
diện
tích
vùng
nuôi
thuộc
các
doanh
nghiệp
hoạt
động
tốt,
có
khả
năng
áp
dụng
nhanh
hơn
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
thuật
vào
nuôi
trồng.
Cơ
sở
hạ
tầng
được
đầu
tư
đồng
bộ
để
xây
dựng
vùng
nuôi
đạt
các
tiêu
chuẩn
VietGAP
và
GlobalGAP,
ASC...
Tuy
nhiên,
để
thực
hiện
tốt
quy
hoạch,
các
địa
phương
vùng
ĐBSCL
cũng
đang
kiến
nghị
có
phương
thức
tăng
cường
liên
kết,
hợp
tác
để
đảm
bảo
quy
hoạch,
kế
hoạch
toàn
vùng.
Hiệp
hội
Cá
tra
Việt
Nam
đã
được
Nghị
định
36
đặt
vào
vị
trí
làm
cầu
nối
liên
kết
các
tác
nhân
trong
chuỗi
giá
trị
cá
tra,
đang
bước
đầu
phát
huy
vai
trò.
Theo
Hiệp
hội,
khi
thực
hiện
tốt
quy
hoạch,
xây
dựng
các
mối
liên
kết
nuôi
trồng
và
chế
biến
bền
chắc,
sẽ
là
cơ
sở
hình
thành
các
cụm
công
nghiệp
chế
biến
cá
tra
hiện
đại.
Thủy
sản
Việt
Nam