Đảm
bảo
được
một
số
yếu
tố
chất
lượng
nước
quan
trọng
sẽ
góp
phần
chủ
động
quản
lý
sức
khỏe
tôm
nuôi,
đặc
biệt
trong
điều
kiện
biến
đổi
khí
hậu
như
hiện
nay.
Độ
mặn
thấp
Tôm
nuôi
ở
độ
mặn
cao
dễ
bị
dịch
bệnh,
nhất
là
các
virus
đốm
trắng,
đầu
vàng,
vi
khuẩn
phát
sáng
và
bệnh
EMS.
Tôm
nuôi
ở
độ
mặn
thấp
có
hiệu
quả
rõ
rệt
trong
việc
kiểm
soát
vi
khuẩn
Vibrio
trong
nước.
Vì
vậy,
một
trong
những
xu
hướng
nuôi
tôm
an
toàn
hiện
nay
là
nuôi
tôm
với
độ
mặn
thấp
(<
10‰).
So
với
tôm
sú
thì
tôm
thẻ
chân
trắng
(TTCT)
thích
nghi
độ
mặn
thấp
hơn.
TTCT
được
nuôi
ở
độ
mặn
thấp
(5
-
15‰)
sẽ
tăng
trưởng
nhanh
hơn
ở
độ
mặn
cao.
Đó
là
do
ở
độ
mặn
thấp
sự
trao
đổi
chất
(protein)
trong
cơ
thể
tôm
tốt
hơn
và
khi
độ
mặn
thấp
thì
tôm
bị
bắt
buộc
sử
dụng
tổng
acid
amin
tự
do
để
bù
vào
sự
thay
đổi
thể
tích
tế
bào.
Tuy
nhiên,
khi
áp
dụng
nuôi
tôm
ở
độ
mặn
thấp
cần
có
một
số
lưu
ý
đặc
biệt
trong
quá
trình
ương
nuôi.
Thứ
nhất,
khi
mới
bắt
đầu
đưa
vào
nuôi,
cần
hạ
độ
mặn
từ
từ,
tránh
gây
sốc
cho
tôm
nuôi.
Trong
tháng
đầu
tiên
nên
duy
trì
độ
mặn
không
thấp
hơn
7
-
8‰,
sang
tháng
thứ
2
nên
duy
trì
độ
mặn
không
thấp
hơn
5‰.
Và
một
lưu
ý
hết
sức
quan
trọng,
khi
nuôi
ở
độ
mặn
thấp
các
ion
Ca++,
Mg++,
Na+,
K+…
sẽ
thấp
nên
quá
trình
lột
xác
xảy
ra
không
đồng
đều,
tôm
sẽ
bị
mềm
vỏ
sau
khi
lột
xác,
dễ
bị
tôm
khác
tấn
công,
ăn
thịt,
tỷ
lệ
hao
hụt
cao.
Vậy
bổ
sung
định
kỳ
hàm
lượng
khoáng
vào
ao
nuôi
và
trộn
Vitamin
C
vào
thức
ăn
với
liều
lượng
60
mg/kg
thức
ăn
cho
ăn
hằng
ngày.

Kiểm
tra
tôm
nuôi
-
Ảnh:
Thanh
Nhã
Mật
độ
thấp
Tôm
nuôi
ở
mật
độ
thấp
có
tốc
độ
tăng
trưởng
cao
hơn
so
với
tôm
nuôi
ở
mật
độ
cao.
Theo
kết
quả
nghiên
cứu
của
Trung
tâm
Quốc
gia
Giống
hải
sản
miền
Bắc
-
Viện
Nghiên
cứu
Nuôi
trồng
Thủy
sản
I,
khi
nuôi
TTCT
giống
sạch
bệnh,
bể
composite
trong
nhà,
môi
trường
nuôi
tương
đồng
nhau
với
những
mật
độ
40
con,
60
con,
80
con
cho
những
kết
quả
nuôi
khác
nhau.
Tỷ
lệ
phân
đàn
về
khối
lượng
của
tôm
sau
khi
thu
hoạch
nuôi
tương
ứng
mật
độ
lần
lượt:
7,27%;
8,22%;
12,9%.
Tỷ
lệ
sống
đạt
lần
lượt:
79,7%;
78,7%;
70,3%.
Hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
cũng
bị
ảnh
hưởng
với
các
mật
độ
như
trên
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
lần
lượt
là
1,39;
1,44;
1,47.
Trong
điều
kiện
nghiên
cứu
cho
tôm
ăn
theo
nhu
cầu,
không
có
ảnh
hưởng
của
sự
cạnh
tranh
thức
ăn.
Như
vậy,
theo
kết
quả
nghiên
cứu,
mật
độ
nuôi
ảnh
hưởng
đến
hiệu
quả
nuôi
tôm
thương
phẩm.
Nuôi
với
mật
độ
càng
cao
thì
tốc
độ
tăng
trưởng
càng
chậm,
tỷ
lệ
sống
càng
thấp,
tỷ
lệ
phân
đàn
và
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
cao.
Nguyên
nhân
dẫn
đến
sinh
trưởng
và
tỷ
lệ
sống
của
tôm
giảm
khi
nuôi
với
mật
độ
cao
là
do
mức
độ
stress
của
tôm
nuôi.
Khi
nuôi
tôm
với
mật
độ
càng
cao
thì
mức
stress
của
tôm
càng
nặng.
Cần
phải
tính
toán
kỹ
mật
độ
tôm
thả
nuôi
tùy
theo
điều
kiện
chăm
sóc.
Độ
kiềm
cao
Độ
kiềm
ảnh
hưởng
gián
tiếp
lên
năng
suất
sinh
học
sơ
cấp
trong
ao.
Khi
độ
kiềm
thấp,
một
vài
thành
phần
hóa
học
cần
thiết
cho
sự
phát
triển
của
vi
tảo
sẽ
bị
thiếu.
Bicarbonat
là
dạng
chính
của
độ
kiềm.
Trong
ao
nuôi
TTCT,
độ
kiềm
không
được
thấp
hơn
80
mg/l
CaCO3 để
đảm
bảo
cho
tôm
tăng
trưởng
và
tỷ
lệ
sống
cao.
Khi
độ
kiềm
thấp,
pH
sẽ
biến
động
và
gây
stress,
giảm
tăng
trưởng
và
thậm
chí
gây
chết
tôm.
Độ
kiềm
thấp
có
thể
do
nguồn
nước
có
độ
kiềm
thấp
hoặc
có
sự
hiện
diện
của
động
vật
thân
mềm
hai
mảnh
vỏ
trong
ao,
chúng
hấp
thụ
muối
carbonat
và
lọc
hết
tảo
làm
thức
ăn,
kết
quả
là
làm
nước
trong
và
có
độ
kiềm
rất
thấp.
Natri
bicarbonat
(NaHCO3)
và
vôi
tôi
Ca(OH)2 là
những
hóa
chất
được
khuyến
cáo
để
nâng
cao
độ
kiềm
trong
ao.
Mặc
dù
vôi
tôi
được
sử
dụng
phổ
biến,
việc
sử
dụng
cân
bằng
nguồn
thức
ăn
cũng
có
thể
làm
tăng
độ
kiềm
do
tăng
hàm
lượng
ion
carbonat.
Ôxy
cao
Các
thống
kê
sơ
bộ
chỉ
ra
rằng
phần
lớn
các
ao
nuôi
có
tần
suất
thành
công
cao
trong
thời
gian
vừa
qua
đều
cung
cấp
ôxy
rất
tốt,
quản
lý
nồng
độ
ôxy
có
hiệu
quả.
Hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
thấp
khiến
tôm
ăn
ít
và
ăn
chậm,
dẫn
đến
hiện
tượng
thừa
thức
ăn,
ô
nhiễm
nguồn
nước.
Với
hàm
lượng
ôxy
thấp
hơn
2
mg/l
sau
1
tiếng
tôm
ăn
lượng
thức
ăn
thừa
khoảng
45%.
Hàm
lượng
ôxy
thấp
dẫn
đến
hệ
số
chuyển
hóa
thức
ăn
cao,
tôm
chậm
lớn,
dễ
cảm
nhiễm
bệnh
do
vi
khuẩn
đặc
biệt
là
các
bệnh
phân
trắng,
tỷ
lệ
sống
thấp,
tăng
trưởng
chậm.
Trong
ao
nuôi
4
ppm
là
hàm
lượng
ôxy
cần
thiết
để
tôm
hoạt
động
bình
thường,
môi
trường
ổn
định,
tôm
tăng
trưởng
tốt.
Hiện
có
nhiều
thiết
bị
cung
cấp
ôxy
trong
ao
nuôi
tôm:
quạt
nước,
các
đĩa
hoặc
ống
aero
tube,
cung
cấp
ôxy
đáy,
quạt
nước
truyền
thống,
quạt
lông
nhím.
Cần
bố
trí,
quản
lý
thích
hợp
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
để
đảm
bảo
cho
quá
trình
nuôi
hiệu
quả.
>>
Kiểm
soát
chất
lượng
nước
là
yếu
tố
quan
trọng.
Chất
lượng
nước
không
ổn
định
ảnh
hưởng
đến
hoạt
động
trao
đổi
chất
và
tiến
trình
sinh
lý
khác
của
vật
nuôi,
làm
chậm
tăng
trưởng,
tăng
stress,
dẫn
đến
mẫn
cảm
với
bệnh
tật,
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
năng
suất,
sản
lượng.
|
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam