Tôm
nước
lợ
là
mặt
hàng
xuất
khẩu
hàng
đầu
của
thủy
sản
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
trước
những
thách
thức
nội
tại
của
ngành
và
yêu
cầu
của
thị
trường,
chỉ
có
cách
nâng
cao
năng
lực
sản
xuất,
tiêu
thụ
và
xuất
khẩu
theo
hướng
tăng
giá
trị
gia
tăng.
Tăng
trưởng
nóng
Theo
số
liệu
thống
kê
tốc
độ
tăng
trưởng
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
không
ngừng
tăng
cả
về
diện
tích,
sản
lượng.
Diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
năm
2014
là
699.725
ha
(ĐBSCL
chiếm
91%),
tăng
1,13
lần
so
với
năm
2010,
bình
quân
tăng
3,12%/năm.
Trong
đó,
diện
tích
nuôi
tôm
sú
604.130
ha
(ĐBSCL
chiếm
93,73%)
giảm
1,2%
so
với
năm
2010,
bình
quân
giảm
0,3%/năm;
diện
tích
nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng
(TTCT)
95.594
ha
(ĐBSCL
chiếm
74,35%),
tăng
13,04
lần
so
với
năm
2010,
bình
quân
tăng
90,03%/năm.
Sản
lượng
nuôi
tôm
nước
lợ
năm
2014
đạt
khoảng
661.074
tấn
(ĐBSCL
chiếm
80,61%),
tăng
1,5
lần
so
với
năm
2010,
bình
quân
tăng
10,59%/năm.
Sản
lượng
tôm
sú
269.711
(ĐBSCL
chiếm
85,46%),
giảm
16,79%
so
với
năm
2010,
bình
quân
giảm
4,49%/năm;
sản
lượng
TTCT
đạt
391.363
tấn
(ĐBSCL
chiếm
71,15%),
tăng
gấp
3,32
lần
so
với
năm
2010,
bình
quân
tăng
35%/năm.
Đặc
biệt,
về
kim
ngạch
xuất
khẩu
tôm
năm
2014
đạt
3.952,9
triệu
USD,
chiếm
50,45%
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu
thủy
sản,
tăng
1,56
lần
so
với
năm
2010,
bình
quân
tăng
trưởng
17,04%/năm
(2010
-
2014).
Mặt
hàng
tôm
sú
đạt
1.385,5
triệu
USD,
chiếm
35,05%,
mặt
hàng
TTCT
đạt
2.310,5
triệu
USD
chiếm
58,45.
Tôm
nước
lợ
tạo
việc
làm
cho
hơn
1,5
triệu
người
(ĐBSCL
chiếm
trên
90%).

Đối
diện
nhiều
thách
thức
Tăng
trưởng
các
chỉ
tiêu
kinh
tế
ngành
tôm
năm
sau
luôn
cao
hơn
năm
trước
nhưng
chất
lượng
tăng
trưởng
còn
nhiều
hạn
chế,
thể
hiện
trên
nhiều
mặt.
Cơ
sở
hạ
tầng
thủy
lợi,
điện,
giao
thông…
phục
vụ
nuôi
tôm
nước
lợ
chưa
được
đầu
tư
thích
đáng.
Hiện,
hạ
tầng
thủy
lợi
được
đầu
tư
chủ
yếu
là
phục
vụ
trồng
lúa;
hầu
hết
các
vùng
nuôi
tôm
chưa
có
hệ
thống
cấp,
thoát
nước
riêng,
chưa
có
hệ
thống
xử
lý
nước
thải,
hệ
thống
giao
thông
và
điện
chưa
được
đầu
tư,
chủ
yếu
tận
dụng
từ
các
công
trình
thủy
lợi
của
ngành
nông
nghiệp
dẫn
đến
nguồn
nước
không
đảm
bảo,
gây
ô
nhiễm
môi
trường,
dễ
làm
phát
sinh
và
lây
lan
dịch
bệnh.
Khả
năng
cung
ứng
tôm
giống
sạch
bệnh
cho
người
nuôi
còn
rất
thấp,
khoảng
50%.
Thực
tế
lâu
nay,
người
nuôi
tôm
còn
khó
khăn
trong
tiếp
cận
vốn,
thiếu
vốn
sản
xuất,
nguồn
vốn
vay
tín
dụng
còn
khó
khăn,
lãi
suất
còn
cao.
Chưa
kể,
các
rào
cản
kỹ
thuật,
thương
mại
của
thị
trường
nhập
khẩu
tôm
ngày
càng
chặt
chẽ,
yêu
cầu
an
toàn
thực
phẩm
cao,
truy
xuất
nguồn
gốc
sản
phẩm.
Đặc
biệt,
thể
chế
chính
sách
cần
thiết
cho
quy
hoạch
còn
thiếu,
nhất
là
chưa
có
quy
hoạch
đầy
đủ
vùng
nuôi
tôm
nước
lợ.
Cơ
cấu
sản
phẩm
chế
biến
cũng
chưa
hợp
lý,
xuất
khẩu
chủ
yếu
ở
dạng
sơ
chế
nên
giá
trị
gia
tăng
thấp.
Sản
phẩm
chất
lượng
chưa
cao,
thiếu
tính
cạnh
tranh,
giá
thường
thấp
hơn
sản
phẩm
cùng
loại
của
các
nước
trong
khu
vực
5
-
10%;
Nâng
cao
giá
trị
gia
tăng
để
phát
triển
bền
vững
Để
tôm
nước
lợ
ĐBSCL
phát
triển
bền
vững,
thời
gian
tới,
cần
thiết
phải
thực
hiện
tốt
nhiệm
vụ
quản
lý
nhà
nước
về
hoạt
động
sản
xuất,
chế
biến
và
xuất
khẩu
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
theo
hướng
nâng
cao
giá
trị
gia
tăng.
Theo
đó,
về
hệ
thống
văn
bản
quản
lý,
quy
hoạch
sản
xuất,
chế
biến
và
xuất
khẩu
tôm
nước
lợ
cho
các
tỉnh
này,
cần
rà
soát
và
điều
chỉnh
quy
hoạch
chi
tiết
nuôi
và
chế
biến,
tiêu
thụ
tôm
ở
8
tỉnh,
thành
phố
vùng
ĐBSCL
phù
hợp
quy
hoạch
tổng
thế
phát
triển
nuôi
tôm
đến
năm
2020.
Về
giám
sát
và
quản
lý
hoạt
động
sản
xuất
và
tiêu
thụ
tôm
nước
lợ,
việc
thành
lập
Ban
chỉ
đạo
sản
xuất,
chế
biến
và
xuất
khẩu
tôm
điều
phối
hoạt
động
sản
xuất
và
tiêu
thụ
tôm
trong
vùng
ĐBSCL
là
điều
cần
thiết.
Về
hạ
tầng,
kỹ
thuật,
cần
gấp
rút
xây
dựng
mới
3
khu
sản
xuất
tôm
tập
trung
tại
các
tỉnh
Cà
Mau,
Bạc
Liêu
và
Sóc
Trăng
theo
quy
hoạch
hệ
thống
nghiên
cứu,
sản
xuất
và
cung
ứng
giống
thủy
sản
đến
năm
2020
đã
được
phê
duyệt.
Một
trong
những
vấn
đề
cốt
yếu
nữa
là
tổ
chức
lại
sản
xuất
theo
hướng
thành
lập
các
tổ
hợp
tác;
tạo
mối
liên
kết
chuỗi
hữu
cơ
giữa
nhà
máy
sản
xuất
thức
ăn,
tổ
hợp
nuôi
tôm
và
doanh
nghiệp
chế
biến
xuất
khẩu
có
sự
tham
gia
của
nhà
quản
lý
và
các
hiệp
hội
nhằm
phát
triển
nuôi
tôm
bền
vững.
Nhanh
chóng
cấp
phép
hoạt
động
cho
các
cơ
sở
sản
xuất,
chế
biến
và
tiêu
thụ
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL;
tiến
tới
áp
dụng
tiêu
chuẩn
VietGAP
cho
tất
cả
các
vùng
nuôi
tôm
tập
trung
(trong
quy
hoạch)
ở
ĐBSCL.
Và
cuối
cùng,
yếu
tố
không
thể
thiếu
đó
là
các
đơn
vị
của
Bộ
NN&PTNT,
Bộ
Công
Thương
cần
có
giải
pháp
xây
dựng
cơ
chế
xúc
tiến
thương
mại
đủ
mạnh
để
mở
rộng
thị
trường,
tăng
chủng
loại
hàng.
Có
như
vậy
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
mới
tạo
được
thế
cạnh
tranh
với
thị
trường
quốc
tế.
>>
Ông
Lê
Văn
Quang
-
Chủ
tịch
kiêm
Tổng
Giám
đốc
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú:
"Hãy
nuôi
loại
tôm
nào
thị
trường
cần
(size
tôm
có
nhu
cầu
cao),
để
được
giá
cao.
Đừng
nuôi
tôm
với
hóa
chất,
kháng
sinh;
hãy
nuôi
tôm
bằng
công
nghệ
vi
sinh.
Muốn
như
vậy
phải
mua
tôm
không
kháng
sinh
với
giá
đủ
cao
để
có
thể
khuyến
khích
được
người
nuôi…".
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam