Mô
hình
canh
tác
lúa
–
tôm
chủ
yếu
tập
trung
ở
các
tỉnh
ven
biển
như:
Kiên
Giang,
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Bến
Tre,
Cà
Mau…
đang
cho
hiệu
quả
kinh
tế
cao.
Hàng
năm,
nông
dân
thu
về
hai
nguồn
lợi
lúa
và
tôm,
khoảng
4
–
4,5
tấn
lúa/ha/vụ
và
0,45
–
0,5
tấn
tôm/ha/vụ,
cho
thu
nhập
từ
100
–
130
triệu
đồng/ha.
Yên
tâm
đầu
ra
Trước
đây,
nông
dân
tại
khu
vực
ĐBSCL
coi
việc
trồng
lúa
–
tôm
là
thu
nhập
phụ
nên
chỉ
xuống
giống
và
chờ
thu
hoạch.
Nhưng
vài
năm
trở
lại
đây,
người
dân
chuyển
đổi
trồng
lúa
ngắn
ngày
và
các
giống
lúa
có
chất
lượng
gạo
ngon
như
ST24,
ST25,
RVT,
Jasmine…
đã
mang
lại
thu
nhập
rất
tốt.
Năng
suất
lúa
–
tôm
3
–
4
tấn/ha
đã
tăng
lên
5
–
5,5
tấn/ha/vụ,
tăng
thêm
thu
nhập
đáng
kể
cho
nông
dân.
Tính
ra,
một
vụ
lúa
có
thể
mang
về
lợi
nhuận
từ
30
–
50
triệu
đồng/ha,
tương
đương
lợi
nhuận
3
vụ
lúa
ở
các
vùng
canh
tác
3
vụ
lúa/năm.
Ngoài
ra,
trong
vụ
tôm
(luân
canh),
hoặc
tôm
xen
canh
trong
ruộng
lúa
cũng
mang
về
từ
50
–
100
triệu
đồng/ha,
góp
phần
mang
lại
tổng
thu
nhập
khoảng
100
–
130
triệu
đồng/ha
tôm
–
lúa,
cao
gấp
3
–
4
lần
so
trồng
lúa
chuyên
canh
3
vụ/năm.
Mô
hình
sản
xuất
lúa
tôm
ở
ĐBSCL
đang
mang
lại
hiệu
quả
cao. Ảnh:
LHV
PGS.TS
Mai
Thành
Phụng,
nguyên
Trưởng
Bộ
phận
thường
trực
Nam
bộ
(Trung
tâm
Khuyến
nông
Quốc
gia)
cho
biết,
với
diện
tích
canh
tác
lúa
–
tôm
hàng
năm
ở
ĐBSCL
trên
220.000
ha,
đang
dự
kiến
tăng
lên
270.000
–
280.000
ha/năm
cho
những
năm
tiếp
theo.
Mùa
vụ
chính
của
lúa
–
tôm
hàng
năm
bắt
đầu
từ
tháng
6
–
7
tiến
hành
làm
đất,
rửa
mặn
và
xuống
giống
từ
tháng
8
–
11
là
dứt
điểm.
Nhưng
tùy
theo
tình
hình
mùa
mưa
đến
trễ
hay
sớm
mà
lịch
xuống
giống
được
điều
chỉnh
ở
từng
nơi.
Năm
nay,
các
địa
phương
dự
kiến
sẽ
xuống
giống
sớm
hơn
và
dứt
điểm
trong
tháng
10.
Những
năm
gần
đây
các
vùng
lúa
–
tôm
đều
được
các
doanh
nghiệp
bao
tiêu
sản
phẩm
nên
người
dân
rất
an
tâm
và
phấn
khởi
để
đầu
tư.
Sản
xuất
lúa
–
tôm
mang
lại
tổng
thu
nhập
khoảng
100
–
130
triệu
đồng/ha/năm
Kiên
Giang
là
một
trong
những
tỉnh
ven
biển
có
diện
tích
lúa
–
tôm
trên
102.000
ha
được
xem
là
lớn
nhất
ở
ĐBSCL,
hàng
năm
nông
dân
thu
về
hai
nguồn
lợi
lúa
và
tôm,
khoảng
4
–
4,5
tấn
lúa/ha/vụ
và
0,45
–
0,5
tấn
tôm/ha/vụ.
Trước
đây
cho
thu
nhập
bình
quân
khoảng
50
triệu
đồng/ha/năm,
những
năm
gần
đây
tăng
lên
100
–
130
triệu
đồng/ha/năm,
đồng
thời
tạo
ra
môi
trường
sinh
thái
khá
an
toàn,
bền
vững
cho
sản
xuất
lúa
–
tôm.
Ông
Lê
Văn
Dũng,
Trưởng
Phòng
Thông
tin
và
Chuyển
giao
kỹ
thuật
(Trung
tâm
Khuyến
nông
Kiên
Giang)
cho
biết,
những
năm
gần
đây,
Kiên
Giang
đã
chuyển
đổi
hàng
chục
nghìn
ha
đất
lúa
ven
biển
sang
luân
canh
lúa
–
tôm
đã
mang
lại
hiệu
quả
kinh
tế
cao.
Mô
hình
này
không
chỉ
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu,
nước
biển
dâng
mà
còn
khai
thác
được
lợi
thế
của
tỉnh
ven
biển,
với
bờ
biển
dài
hơn
200
km.
Ðiển
hình
cho
việc
chuyển
đổi
này
là
các
huyện
như:
An
Minh,
An
Biên,
Vĩnh
Thuận
và
U
Minh
Thượng,
biến
vùng
nông
thôn
khó
khăn
trở
thành
điểm
sáng
trong
phát
triển
kinh
tế
qua
mô
hình
lúa
–
tôm.
Còn
tại
tỉnh
Bạc
Liêu,
mô
hình
lúa
–
tôm
đang
được
khuyến
khích
nhân
rộng
và
thực
hiện
tốt
chỉ
đạo
của
Chính
phủ
về
Đề
án
phát
triển
nông
nghiệp
hữu
cơ,
Trung
tâm
Khuyến
nông
Quốc
gia
sẽ
đầu
tư
cho
tỉnh
phát
triển
và
nhân
rộng
mô
hình
này,
với
tổng
kinh
phí
khoảng
4
tỷ
đồng.
Riêng
trong
năm
2020,
Bạc
Liêu
xây
dựng
3
vùng
sản
xuất
tôm
sạch,
lúa
an
toàn
trên
150
ha,
sau
khi
có
tổng
kết,
đánh
giá,
rút
kinh
nghiệm
sẽ
làm
cơ
sở
lan
tỏa,
nhân
rộng
cho
những
năm
tiếp
theo
khoảng
1.200
ha.
Dự
kiến
đến
năm
2025
diện
tích
lúa
–
tôm
của
Bạc
Liêu
đạt
41.000
ha,
riêng
năng
suất
tôm
0,5
tấn/ha/năm,
sản
lượng
phấn
đấu
đạt
20.500
tấn.
Đối
với
lúa,
năng
suất
đạt
4,64
tấn/ha,
sản
lượng
phấn
đấu
190.240
tấn.
Qua
đó,
góp
phần
đưa
kim
ngạch
xuất
khẩu
trên
địa
bàn
vùng
phía
Bắc
Quốc
lộ
1A
đạt
500
triệu
USD
vào
năm
2025
(chiếm
50%
kim
ngạch
xuất
khẩu
toàn
tỉnh).
Nâng
cao
giá
trị
sản
phẩm
Về
biện
pháp
quản
lý
đất,
nước,
dinh
dưỡng
trong
canh
tác
lúa
–
tôm
đạt
hiệu
quả
cao
ở
ĐBSCL,
GS.TS
Nguyễn
Bảo
Vệ,
nguyên
Trưởng
Khoa
Nông
nghiệp,
Trường
ĐH
Cần
Thơ
nhận
định,
ưu
điểm
của
mô
hình
canh
tác
lúa
–
tôm
không
phải
muốn
xuống
giống
lúc
nào
cũng
được
mà
đợi
khi
mưa
già
hay
còn
gọi
là
thời
điểm
“đuổi
mặn”
để
trồng
lúa.
Quy
trình
“rượt
và
đuổi”
xuất
hiện
trong
mô
hình
lúa
–
tôm,
bởi
vì
quy
trình
sống
của
cây
lúa
và
con
tôm
là
đối
ngược
nhau.
Đối
với
con
tôm
cần
nước
mặn
hoặc
nước
lợ
nên
nông
dân
đưa
nước
mặn
vào
ruộng
để
nuôi
tôm.
Khi
nước
mưa
xuống
hay
nước
ngọt
sông
Mê
Kông
cho
vào
đồng
ruộng
rửa
mặn
để
phục
vụ
trồng
lúa.
Ưu
điểm
tiếp
theo
mà
GS.TS
Nguyễn
Bảo
Vệ
đưa
ra
cho
mô
hình
lúa
–
tôm
là
nhờ
nước
mặn
ban
đầu
trong
ruộng
nuôi
tôm
trước
khi
xuống
giống
đã
làm
giảm
độ
phèn
chua
trong
đất,
từ
đó
giúp
lúa
tăng
năng
suất
so
với
chỉ
trồng
lúa
mà
không
kết
hợp
nuôi
tôm.
Ông
Lê
Thanh
Tùng,
Phó
Cục
trưởng
Cục
Trồng
trọt
cho
rằng,
vị
trí
và
vai
tò
của
lúa
–
tôm
rất
quan
trọng
nên
hệ
thống
canh
tác
này
cần
phải
được
bảo
vệ
bền
vững
trong
thời
gian
tới;
kết
quả
nghiên
cứu
của
các
chuyên
gia,
nhà
khoa
học
là
hết
sức
quan
trọng
và
cần
được
đưa
vào
sổ
tay
cho
nông
dân
vùng
sản
xuất
lúa
–
tôm
áp
dụng.
Điều
này
sẽ
mang
lại
lợi
ích
rất
lớn
khi
người
dân
thực
hiện
mô
hình
này.
Tương
lai
trong
tất
cả
các
sản
phẩm
từ
lúa,
tôm
cần
được
chứng
nhận
và
khi
được
chứng
nhận
thì
sản
phẩm
mới
có
giá
trị,
giá
bán
mới
cao,
nông
dân
mới
có
lợi
nhuận,
ông
Tùng
nhận
định.
Theo
các
chuyên
gia,
sản
phẩm
mà
mô
hình
lúa
tôm
đang
được
các
nhà
chuyên
môn,
người
dân
quan
tâm
đó
là
sự
kết
hợp
dịch
vụ
trải
nghiệm,
du
lịch
tại
đồng
ruộng
cho
du
khách
có
nhu
cầu.
Nếu
người
dân
có
gạo
hữu
cơ,
tôm
hữu
cơ
và
còn
thêm
sản
phẩm
khác
trên
vùng
lúa
–
tôm
hữu
cơ
sẽ
làm
tăng
giá
trị
sản
phẩm
khi
du
khách
trải
nghiệm
du
lịch
kết
hợp
bắt
tôm,
cá.
Từ
đó,
thu
nhập
của
nông
dân
từ
mô
hình
này
sẽ
tăng
lên
rất
nhiều
trong
thời
gian
tới.