Công
nghệ
số
được
dự
đoán
là
yếu
tố
quan
trọng
nhất
trong
việc
phát
triển
xã
hội
nói
chung
và
kinh
tế
nói
riêng
trong
thế
kỷ
21.
Công
nghệ
số
ngày
nay
được
tích
hợp
như
một
phần
của
ngành
nông
nghiệp,
thủy
sản,
nhằm
nâng
cao
năng
lực
quản
lý
chất
lượng
sản
phẩm
và
dự
báo
về
thị
trường
tiêu
thụ.
Bước
tiến
vượt
bậc
Năm
2020,
Việt
Nam
bắt
đầu
khởi
động
chuyển
đổi
số
quốc
gia
với
3
trụ
cột
chính
là
Chính
phủ
số,
kinh
tế
số
và
xã
hội
số.
Có
thể
nói,
Việt
Nam
là
một
trong
những
quốc
gia
tiên
phong
trên
thế
giới
đã
xây
dựng
một
chương
trình
chuyên
đề
về
chuyển
đổi
số
quốc
gia,
được
Chính
phủ
phê
duyệt.
Năm
2021
được
nhận
định
là
thời
điểm
“vàng”
cho
chuyển
đổi
số.
Tất
cả
các
đơn
vị,
tổ
chức,
doanh
nghiệp,
cá
nhân
cần
phải
hành
động
ngay
để
khát
vọng
chuyển
đổi
số
của
Việt
Nam
sớm
thành
hiện
thực.
Trong
thời
đại
công
nghệ
số
thì
ngành
nông
nghiệp
nói
chung
và
thủy
sản
nói
riêng
cũng
phải
đáp
ứng
đồng
bộ
với
nền
kinh
tế
số.
Trong
đó
có
sự
phát
triển
của
công
nghiệp
4.0,
công
nghệ
robot,
automation
(tự
động
hóa),
IT
(công
nghệ
thông
tin),
IoT
(công
nghệ
internet
kết
nối
vạn
vật),
Drone
(thiết
bị
không
người
lái),
thương
mại
điện
tử,
marketing
số
big
data,
AI
(trí
tuệ
nhân
tạo).
Chuyển
đổi
số
đang
được
áp
dụng
rộng
rãi
trong
ngành
nông
nghiệp,
song
có
lẽ
thành
công
của
chuyển
đổi
số
trong
ngành
thủy
sản
là
rõ
nét
nhất,
vì
sản
phẩm
thủy
sản
được
xuất
khẩu,
có
thị
trường
rộng
rãi
và
theo
tiêu
chuẩn
quốc
tế.
Công
nghệ
số
áp
dụng
trong
nuôi
tôm
giúp
phân
tích
các
dữ
liệu
về
chất
lượng
nước;
quản
lý
thức
ăn
và
sức
khỏe
của
tôm
nuôi.
Công
nghệ
số
cũng
áp
dụng
trong
khâu
chế
biến
thủy
sản
từ
phân
loại,
hấp,
đóng
gói,
dây
chuyền
sản
xuất.
Ngành
thủy
sản
cũng
đang
khá
thành
công
với
các
sản
phẩm
chế
biến,
sản
phẩm
giá
trị
gia
tăng…
trong
đó
có
đóng
góp
của
công
nghệ
số.
Ngành
thủy
sản
cũng
chuyển
đổi
số
mạnh
mẽ
trong
việc
sử
dụng
thiết
bị
dò
cá
sử
dụng
sóng
siêu
âm,
máy
đo
dòng
chảy,
điện
thoại
vệ
tinh;
máy
thu
lưới
vây
(đứng);
hệ
thống
thu
–
thả
lưới
chụp,
công
nghệ
GIS
và
hệ
thống
định
vị
toàn
cầu
(GPS)
giúp
quản
lý
đội
tàu
khai
thác
hải
sản
xa
bờ.
Các
công
nghệ
sinh
học
chọn
lọc,
lai
tạo
các
giống
có
năng
suất,
chất
lượng
cao,
có
khả
năng
kháng
bệnh,
chịu
đựng
tốt
với
môi
trường,
công
nghệ
nuôi
thủy
sản
tuần
hoàn
(RAS),
công
nghệ
biofloc,
công
nghệ
nano,
công
nghệ
nuôi
lồng
trên
biển,
công
nghệ
nuôi
cá
nước
lạnh…
cũng
phát
triển.
Hiện
nay,
tại
các
vùng
nuôi
tôm
ở
ĐBSCL
công
nghệ
số
đã
và
đang
cải
thiện
quản
lý
thời
gian,
giảm
sử
dụng
nước
và
thức
ăn
giúp
tôm
nuôi
khỏe
mạnh
hơn,
đạt
năng
suất
cao
hơn,
giảm
ô
nhiễm
môi
trường.
Có
mặt
tại
huyện
Bình
Đại,
tỉnh
Bến
Tre,
phóng
viên
được
các
chủ
trang
trại
nuôi
tôm
cho
biết:
“Tôm
là
loài
rất
mẫn
cảm
với
sự
thay
đổi
về
môi
trường,
điều
kiện
sống,
vì
vậy
việc
áp
dụng
kỹ
thuật
số
như
cho
ăn
đúng
giờ,
lượng
thức
ăn
vừa
đủ,
quản
lý
về
nồng
độ
ôxy,
nhiệt
độ
ao
nuôi,
chất
lượng
nước
sẽ
giúp
tỷ
lệ
thành
công
tăng
cao.
Ngày
nay
rất
ít
nơi
còn
cho
ăn
bằng
tay
như
trước
đây”.
Năm
2020,
dù
dịch
COVID-19
bùng
phát
mạnh,
cả
thế
giới
lao
đao
nhưng
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
vẫn
phát
triển,
nhất
là
ngành
tôm.
Các
chuyên
gia
nước
ngoài,
các
nhà
phân
tích
quốc
tế
đều
chung
nhận
định:
“Thành
công
cơ
bản
của
Việt
Nam
đó
là
đã
chủ
động
được
nguồn
nguyên
liệu
nhờ
nuôi
tôm
theo
xu
hướng
công
nghiệp”.
Tại
Cà
Mau,
nếu
10
năm
trước
việc
nuôi
quảng
canh
là
phổ
biến,
thì
hiện
nay
các
vùng
nuôi
đều
đang
hình
thành
những
mô
hình
siêu
thâm
canh.
Từ
chỗ
diện
tích
nuôi
siêu
thâm
canh
chỉ
quanh
quẩn
100
ha,
đến
năm
2020
đã
đạt
700
ha
TTCT.
Năm
2021,
tỉnh
đang
phấn
đấu
xây
dựng
5
vùng
nuôi
siêu
thâm
canh
với
diện
tích
1.000
ha
đạt
chứng
nhận
quốc
tế.
Tính
chung,
Cà
Mau
hiện
có 19.000
ha
được
đánh
giá
và
cấp
các
chứng
nhận
nuôi
tôm
theo
tiêu
chuẩn
quốc
tế
như:
Naturland,
BAP,
EU,
Selva
Shrimp
và
VietGAP,
với
khoảng
4.200
hộ
dân
tham
gia,
sản
lượng
tôm
có
chứng
nhận
đạt
năng
suất
trên
10.000
tấn/năm.
Việc
chuyển
đổi
số
được
đánh
giá
là
một
trong
những
nền
tảng
để
Cà
Mau
phát
triển
thành
công
ngành
thủy
sản.
Đó
là
việc
nhờ
công
nghệ
số
mà
sự
kết
nối
giữa
các
cấp
chính
quyền
với
doanh
nghiệp
với
vùng
nuôi
dễ
dàng
hơn,
sự
liên
kết
giữa
các
HTX
với
doanh
nghiệp,
sự
kết
hợp
giữa
nuôi
trồng
chế
biến,
việc
nắm
bắt
yêu
cầu
của
thị
trường
và
kết
nối
quốc
tế
đều
diễn
ra
nhanh
chóng,
thuận
lợi.
Rõ
ràng
các
tỉnh
như
Cà
Mau,
Bạc
Liêu,
Đồng
Tháp,
An
Giang…
đều
đang
chủ
động
kết
nối
với
các
thị
trường
trong
ngoài
nước
nhờ
công
nghệ
số,
chủ
động
đầu
ra
và
nắm
bắt
thị
trường,
tổ
chức
liên
kết
chuỗi,
truy
xuất
nguồn
gốc
sản
phẩm
và
nâng
cao
vị
thế
sản
phẩm
Việt
Nam
trên
trường
quốc
tế
bằng
việc
xây
dựng
thương
hiệu
vùng
nuôi
an
toàn,
sạch
bệnh.
Doanh
nghiệp
tiên
phong
ứng
dụng
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú
đã
ký
kết
Thỏa
thuận
hợp
tác
chiến
lược
và
Hợp
đồng
Tư
vấn
chuyển
đổi
số
với
Tập
đoàn
FPT,
với
mục
tiêu
tập
trung
thực
hiện
dự
án
xây
dựng
lộ
trình
chuyển
đổi
số
hướng
đến
tối
ưu
hóa
quy
trình
vận
hành,
giảm
thiểu
chi
phí
và
nâng
cao
năng
lực
sản
xuất,
với
hướng
phát
triển
thành
công
ty
công
nghệ
thủy
sản
trong
top
đầu
thế
giới
và
đạt
25%
thị
phần
tôm
thế
giới
vào
năm
2045.
Do
vậy,
các
nhiệm
vụ
vận
hành
cấp
bách
đặt
ra
với
Minh
Phú
là:
Tự
động
hóa
trong
sản
xuất;
xây
dựng
Big
data
cho
ngành
tôm
–
bao
gồm
xây
dựng
cộng
đồng
cho
ngành
thủy
sản;
xây
dựng
hệ
thống
liên
kết
chặt
chẽ
thông
tin,
cũng
như
hoạt
động
trong
chuỗi
giá
trị
kinh
doanh
của
cả
Tập
đoàn;
áp
dụng
công
nghệ
truy
xuất
nguồn
gốc.
Tham
quan
trại
tôm
giống
của
Công
ty
Cổ
phần
Chăn
nuôi
C.P.
Việt
Nam,
có
thể
thấy
việc
đánh
giá
tôm
giống
từ
cảm
quan
đã
được
chuyển
sang
phân
tích
bằng
kỹ
thuật
số,
từ
cân
nặng,
chiều
dài,
màu
sắc,
sự
linh
hoạt,
thể
chất.
Nhờ
vậy,
việc
sản
xuất
cung
ứng
tôm
giống
của
C.P
được
người
nuôi
đánh
giá
cao.
Hay
việc
Tập
đoàn
Việt
–
Úc
sản
xuất
tôm
giống
bố
mẹ
chất
lượng
cao
cũng
được
coi
là
một
thành
công
minh
chứng
cho
việc
chuyển
đổi
công
nghệ
số
trong
ngành
tôm
giống
tại
Việt
Nam.