Tôm
thẻ
chân
trắng
thắng
thế
Theo
ông
Nguyễn
Hoài
Nam,
Phó
tổng
thư
ký
Hiệp
hội
Chế
biến
và
Xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
kim
ngạch
xuất
khẩu
thủy
sản
6
tháng
đầu
năm
2015
đạt
khoảng
3
tỷ
USD,
giảm
16%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái,
trong
đó,
mặt
hàng
chiếm
tỷ
trọng
xuất
khẩu
lớn
là
tôm
(năm
2014
chiếm
khoảng
50%)
sụt
giảm
khá
mạnh
(khoảng
28%),
đạt
1,3
tỷ
USD.
Về
thị
trường
tôm,
ông
Nam
cho
biết,
thông
thường,
vào
tháng
6,
các
nhà
nhập
khẩu
từ
Mỹ
và
châu
Âu
mua
nhiều.
Năm
nay,
xu
hướng
này
không
giống
như
những
năm
trước,
nhu
cầu
lại
giảm.
Có
thể
là
các
nhà
nhập
khẩu
đang
trông
chờ
vào
giá
giảm,
khi
hiện
nay
nguồn
cung
của
thế
giới
đang
cao.
Nguyên
nhân
khiến
kim
ngạch
xuất
khẩu
thủy
sản
giảm
không
chỉ
do
nhu
cầu
của
thị
trường
không
tăng
mà
còn
do
chúng
ta
đang
phải
cạnh
tranh
với
những
mặt
hàng
cùng
loại
nhưng
giá
rẻ
hơn
đến
từ
các
nước
khác.
Ví
như,
con
tôm
đang
phải
giành
giật
thị
phần
với
tôm
của
Ấn
Độ,
Thái
Lan,
vốn
đang
có
lợi
thế
hơn
ta
về
giá;
cá
tra
vốn
được
nghĩ
là
“sản
phẩm
độc
quyền”
của
Việt
Nam
nhưng
trong
dòng
cá
thịt
trắng
nó
đang
phải
cạnh
tranh
mạnh
với
cá
rô
phi,…
Những
nguy
cơ
bị
giành
giật
thị
trường
đã
hiện
diện
trước
mắt,
nếu
không
có
các
giải
pháp
mạnh
để
nâng
cao
chất
lượng,
hạ
giá
thành
sản
phẩm
thì
chúng
ta
sẽ
không
còn
giữ
được
mãi
thế
thượng
phong.
Nhưng
trên
thực
tế,
cho
đến
thời
điểm
này,
đề
án
tái
cơ
cấu
ngành
thủy
sản
vẫn
ì
ạch;
mới
có
36/63
tỉnh,
thành
phố
triển
khai
đề
án.
Diện
tích
nuôi
tôm
sú,
cá
tra,
cá
rô
phi
vẫn
ổn
định
nhưng
cơ
cấu
đã
chuyển
dịch
dần
sang
thâm
canh
tôm
thẻ
chân
trắng.
Tôm
thẻ
chiếm
12,5%
diện
tích
nuôi
nhưng
chiếm
tới
57%
sản
lượng;
tôm
sú
chiếm
87%
diện
tích
nuôi,
song
chỉ
chiếm
43%
sản
lượng.
Do
sự
phát
triển
lớn
mạnh
của
tôm
thẻ
chân
trắng
ở
một
số
địa
phương,
có
thể
dẫn
đến
nguy
cơ
phá
vỡ
quy
hoạch,
tạo
áp
lực
lớn
về
vốn
và
xây
dựng
cơ
sở
hạ
tầng,
cảnh
báo
ảnh
hưởng
xấu
đến
môi
trường
và
nguy
cơ
dịch
bệnh
tăng
cao.
Bên
cạnh
đó,
việc
triển
khai
rà
soát
quy
hoạch
cá
tra
của
các
địa
phương
còn
chậm,
người
nuôi
và
doanh
nghiệp
thiếu
vốn
sản
xuất
và
khó
tiếp
cận
nguồn
vốn
vay
của
các
tổ
chức
tín
dụng;
công
nghệ
nuôi
cá
rô
phi
chưa
có
quy
trình
chuẩn,
chất
lượng
sản
phẩm
không
ổn
định.
Đối
với
lĩnh
vực
khai
thác
thủy
sản
và
dịch
vụ
hậu
cần
nghề
cá,
các
địa
phương
đã
chủ
động
định
hướng
ngư
dân
phát
triển
những
nghề
đánh
bắt
bền
vững;
tăng
cường
đội
tàu
đánh
bắt
xa
bờ,
chú
trọng
khâu
chế
biến,
bảo
quản
theo
tinh
thần
Nghị
định
67.
Tuy
nhiên,
khâu
liên
kết
giữa
ngư
dân
và
doanh
nghiệp,
gắn
sản
xuất
với
thị
trường
gặp
nhiều
khó
khăn;
hệ
thống
cơ
sở
hạ
tầng
phục
vụ
nuôi
trồng
thủy
sản
chưa
đảm
bảo,
thiếu
điện
lưới
và
hạ
tầng
thủy
lợi
tốt
cho
nuôi
trồng
thủy
sản;
hệ
thống
thông
tin
nghề
cá
còn
thiếu
và
hoạt
động
yếu.
Điều
đáng
nói
là,
sự
phát
triển
quá
nóng
về
diện
tích
tôm
thẻ
chân
trắng
(nhiều
địa
phương
đã
vượt
quy
hoạch)
khiến
dịch
bệnh
(đốm
trắng,
hoại
tử
gan
tụy,…)
xuất
hiện
tràn
lan,
nhiều
diện
tích
tôm
nuôi
bị
chết,
sản
lượng
thu
hoạch
giảm.
Đặc
biệt,
giá
tôm
nguyên
liệu
trên
thị
trường
giảm
mạnh
(từ
20
-
30%),
gây
thiệt
hại
cho
người
nuôi.
Vì
vậy,
những
tháng
đầu
năm
2015,
tiến
độ
triển
khai
vụ
nuôi
tôm
nước
lợ
chậm
so
với
kế
hoạch.
Đến
thời
điểm
này,
cả
nước
đã
thả
nuôi
616.480ha
(đạt
90%
kế
hoạch
năm
và
bằng
96%
so
cùng
kỳ
năm
2014).
Sản
lượng
tôm
thu
hoạch
là
230.910
tấn
(đạt
hơn
32%
kế
hoạch
năm
và
bằng
87,9%
so
cùng
kỳ
2014);
trong
đó
tôm
sú
đạt
115.814
tấn,
tôm
thẻ
chân
trắng
115.069
tấn.
Ông
Nguyễn
Anh
Tuấn,
Phó
tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Thủy
sản,
cho
biết,
tính
đến
tháng
6/2015,
hình
thức
nuôi
quảng
canh
và
quảng
canh
cải
tiến
(chuyên
tôm
sú)
ổn
định
khoảng
540.000ha,
tăng
89%
diện
tích
nuôi.
Năm
2014,
ĐBSCL
có
5.500ha
nuôi
cá
tra,
đạt
sản
lượng
1,1
triệu
tấn.
Các
năm
tiếp
theo
sẽ
tăng
diện
tích
và
sản
lượng
phù
hợp
với
khả
năng
mở
rộng
thị
trường.
Đồng
bằng
Bắc
Bộ
đang
phát
triển
đối
tượng
nuôi
mới
là
cá
rô
phi
thâm
canh
trong
ao;
còn
ở
Nam
Bộ
nuôi
trong
lồng
bè
trên
sông.
Năm
2014,
có
16.000ha
nuôi
cá
rô
phi
trong
ao
và
nuôi
lồng
bè
410.000m3,
năng
suất
trung
bình
đạt
trên
6
tấn/ha,
sản
lượng
cá
rô
phi
và
điêu
hồng
đạt
125.000
tấn,
tăng
25%
so
năm
2013.
Người
nuôi
cá
tra
thở
bằng
“mũi”
người
khác
Đó
là
nhận
định
của
đại
diện
Sở
Nông
nghiệp
và
PTNT
An
Giang,
bởi
70%
thức
ăn
phải
nhập
khẩu;
chất
lượng
cá
giống
không
đảm
bảo,
thị
trường
tiêu
thụ
rất
khó
khăn...
Nếu
cứ
tiếp
tục
tình
trạng
này
thì
chỉ
“béo”
doanh
nghiệp
ngoại.
Gia
đình
ông
Nguyễn
Thành
Tâm
ở
xã
Vĩnh
Thạnh
Trung
(Châu
Phú
-
An
Giang)
có
2ha
ao
nuôi
cá
tra,
bình
quân
mỗi
vụ
(6
tháng/vụ)
thu
hoạch
trên
80
tấn
cá.
Vậy
mà
hơn
10
năm
nay,
cuộc
sống
gia
đình
ông
mỗi
ngày
một
đi
xuống,
nợ
nần
chồng
chất.
Tiền
mua
thức
ăn
ở
cửa
hàng
trong
xã
trên
170
triệu
đồng,
đến
nay
vẫn
chưa
thanh
toán
được.
“Hơn
10
năm
qua,
giá
thức
ăn
mỗi
năm
trung
bình
tăng
khoảng
5%
trong
khi
giá
cá
nguyên
liệu
có
lúc
giảm
xuống
chỉ
còn
15.000
đồng/kg
nên
nông
dân
chúng
tôi
điêu
đứng”,
ông
Tâm
mệt
mỏi
nói.
Ông
Nguyễn
Hữu
Nguyên,
người
nuôi
cá
tra
kỳ
cựu
tại
Châu
Phú
(An
Giang),
chua
chát
nói:
“Hơn
15
năm
nuôi
cá
tra
tôi
đã
trải
qua
bao
buồn
vui,
nhưng
sau
này
buồn
lại
càng
buồn
thêm
vì
cá
tra
là
hàng
độc
quyền
mà
giá
cá
cứ
bấp
bênh”.
Theo
ông
Nguyên,
từ
năm
2010,
khi
cá
tra
chuyển
từ
nuôi
bè,
nuôi
đăng
quầng
sang
nuôi
hầm
thì
doanh
nghiệp
không
mua
cá
tra
nuôi
cho
ăn
thức
ăn
bằng
cám,
chỉ
mua
cá
tra
nuôi
bằng
thức
ăn
viên
vì
ăn
thức
ăn
này
cá
tăng
trọng
nhanh,
ít
mỡ,
dễ
chế
biến
fillet.
Vì
thế,
người
nuôi
cá
phải
chọn
thức
ăn
ngoại
nhập
với
giá
chỉ
tăng
không
giảm.
Từ
đó,
thị
trường
thức
ăn
cho
cá
tra
xuất
hiện
hàng
loạt
“ông
lớn”
như
C.P
(Thái
Lan),
Cagrill
(Mỹ)...
Theo
thống
kê,
hiện
thị
trường
thức
ăn
cho
thủy
sản
có
80%
thị
phần
đang
nằm
trong
tay
các
doanh
nghiệp
nước
ngoài.
Mà
trong
nghề
nuôi
cá
tra,
thức
ăn
chiếm
tới
80%
giá
thành.
Với
thực
tế
nghiệt
ngã
này,
người
nuôi
cá
nhỏ
lẻ
không
còn
đất
sống,
chỉ
có
con
đường
liên
kết
với
doanh
nghiệp.
Coi
trọng
chất
lượng
Theo
đánh
giá
của
Bộ
trưởng
Bộ
Nông
nghiệp
và
PTNT
Cao
Đức
Phát,
tái
cơ
cấu
ngành
thủy
sản
là
chủ
trương
đúng
đắn.
Trong
2
năm
qua,
Bộ
Nông
nghiệp
và
PTNT,
các
bộ,
ngành
cùng
các
địa
phương
đã
có
nhiều
nỗ
lực
triển
khai
thực
hiện
đề
án
tái
cơ
cấu,
kết
quả
bước
đầu
đã
tạo
được
thành
tựu
nhất
định.
“Ngành
tôm
Việt
Nam
đứng
thứ
3
trên
thế
giới,
ngành
cá
tra
đứng
thứ
nhất
thế
giới.
Tuy
nhiên,
để
tạo
nên
một
tầm
cạnh
tranh
quốc
tế
ổn
định,
thời
gian
tới,
tất
cả
các
lĩnh
vực
sản
xuất
trong
lĩnh
vực
thủy
sản
đều
cần
phải
có
tầm
cạnh
tranh
quốc
tế.
Từ
tháng
1/2016,
sẽ
có
một
thị
trường
cộng
đồng
kinh
tế
ASEAN
nên
chỉ
còn
hơn
80
mặt
hàng
phải
chịu
thuế,
sau
3
năm
giảm
còn
hơn
50
mặt
hàng
nên
số
lượng
không
phải
là
vấn
đề
quan
trọng
hàng
đầu.
Đã
có
một
thời
chúng
ta
nghĩ
rằng
làm
nhiều
để
bán
được
nhiều
hơn
và
thu
về
lợi
nhuận
cao
hơn,
nhưng
trên
thực
tế
việc
sản
xuất
nhiều
hơn
chưa
hẳn
đã
thu
được
về
lợi
nhuận
cao
hơn,
thậm
chí
còn
bị
đổ
vỡ”,
Bộ
trưởng
Cao
Đức
Phát
nói.
Bộ
trưởng
Cao
Đức
Phát
nhấn
mạnh,
ngành
thủy
sản
là
một
trong
những
ngành
trọng
yếu
của
nông
nghiệp
Việt
Nam
với
nhiều
tiềm
năng,
lợi
thế
và
tốc
độ
tăng
trưởng
cao
so
với
nhiều
ngành
khác.
Song
trong
bối
cảnh
hội
nhập
kinh
tế
thế
giới
hiện
nay,
cạnh
tranh
của
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
và
các
nước
có
thế
mạnh
đang
ngày
càng
gay
gắt.
Do
đó,
trong
thực
hiện
đề
án,
vấn
đề
nâng
cao
đời
sống
cho
hàng
triệu
nông
dân,
ngư
dân
trên
cả
nước
là
trọng
tâm
nhất,
tái
cơ
cấu
phải
lấy
hiệu
quả
sản
xuất
của
phần
đông
nông
dân,
ngư
dân
qua
từng
mô
hình
sản
xuất,
khai
thác,
đánh
bắt
làm
thước
đo
thành
công.
Kết
quả
sản
xuất
thủy
sản
giai
đoạn
2011
-
2014
của
cả
nước
tiếp
tục
duy
trì
tốc
độ
tăng
trưởng
cao
trong
khối
nông
-
lâm
-
thủy
sản.
Tổng
sản
phẩm
xã
hội
đạt
tốc
độ
trên
5%/năm;
giá
trị
sản
xuất
thủy
sản
tăng
bình
quân
4,7%/năm;
tỷ
trọng
giá
trị
sản
xuất
thủy
sản
từ
21,5%
năm
2011
lên
22,7%
năm
2014;
tốc
độ
tăng
tổng
sản
lượng
thủy
sản
cao
hơn
tốc
độ
tăng
diện
tích;
kim
ngạch
xuất
khẩu
thủy
sản
tăng
trung
bình
gần
8%/năm.