Nghiên
cứu
tác
dụng
của
Bacillus
dạng
đông
khô
và
vi
bọc
đối
với
việc
chống
lại
vi
khuẩn
V.
harveyi
gây
bệnh
trên
tôm
nuôi.
Nghề
nuôi
tôm
ở
khu
vực
Đông
Nam
Á
đang
phát
triển
rất
nhanh
chóng,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Sản
lượng
cao
nhất
thuộc
về
tôm
thẻ
chân
trắng,
nên
việc
đầu
tư
cho
các
hệ
thống
nuôi
ngày
càng
mở
rộng
và
mang
tính
tích
cực
hơn.
Tuy
nhiên
đi
đôi
với
sự
phát
triển
nhanh
chóng
đó
là
sự
đe
dọa
lớn
của
dịch
bệnh
ngày
một
nghiêm
trọng
do
vi
khuẩn
và
virus
gây
ra.
Do
đó
mà
một
lượng
lớn
kháng
sinh
đã
được
sử
dụng
và
tồn
dư.
Tuy
nhiên
hiện
nay
ngành
nuôi
tôm
đang
phát
triển
theo
hướng
an
toàn,
thân
thiện
với
môi
trường.
Các
kỹ
thuật
mới
góp
phần
cải
thiện
năng
suất
mà
không
gây
nguy
hiểm
cho
tôm
nuôi
cũng
như
người
sử
dụng
đang
được
áp
dụng
ngày
càng
nhiều.
Một
trong
số
đó
là
việc
quản
lý
cộng
đồng
vi
sinh
vật
trong
các
hệ
thống
nuôi
trồng
thủy
sản,
thông
qua
các
chế
phẩm
sinh
học
được
xem
là
một
công
cụ
hỗ
trợ
phòng
bệnh
hiệu
quả.
Bổ
sung
vào
thức
ăn
chủng
vi
sinh
Bacillus
đã
được
chứng
minh
là
tăng
cường
các
đáp
ứng
miễn
dịch,
giúp
tăng
trưởng
nhanh,
đồng
thời
cũng
cải
thiện
chất
lượng
nước
nuôi
và
cân
bằng
hệ
vi
sinh
vật
đường
ruột
ở
cả
tôm
sú
và
tôm
thẻ
chân
trắng.
Để
có
tác
dụng
cao
với
các
hệ
thống
nuôi
thủy
sản,
các
chế
phẩm
sinh
học
phải
tồn
tại
được
trong
các
điều
kiện
môi
trường
sống
không
cân
bằng
như
độ
mặn,
pH
thay
đổi,
áp
xuất
thẩm
thấu,
oxy
hòa
tan
thấp…
Công
nghệ
vi
bọc
dạng
viên
nang
cho
thấy
có
thể
bảo
vệ
được
các
chủng
vi
sinh
đóng
gói.
Nghiên
cứu
này
sẽ
xác
định
lợi
ích
của
chủng
vi
khuẩn
Bacillus
đối
với
giai
đoạn
postlarval
trên
tôm
thẻ
chân
trắng
và
khả
năng
chống
lại
vi
khuẩn V.
harveyi của
tôm.
Phương
pháp
và
vật
liệu
Nghiên
cứu
được
thực
hiện
tại
Thái
Lan.
Đầu
tiên
là
thu
thập
giống
giai
đoạn
postlarval
tại
một
trại
giống,
sau
đó
tiến
hành
ương
nuôi
trong
15
ngày
cho
đến
khi
đạt
cỡ
PL30.
Kiểm
tra
bằng
các
phương
pháp
khoa
học
để
chứng
minh
giống
tôm
không
mang
mầm
bệnh
nhất
là V.harveyi.
Các
chủng
vi
khuẩn
Bacillus
(Bacillus
thuringiensis,
B.
megaterium,
B.
licheniformis,
B.
polymyxa và B.
subtilis)
được
phân
lập
từ
ruột
tôm
sú
qua
quá
trình
nuôi
cấy.
Chuyển
thành
vi
sinh
Bacillus
dạng
khô
và
dạng
vi
bọc
sao
cho
đúng
với
số
lượng
cần
cho
nghiên
cứu
và
đảm
bảo
chỉ
có
một
loại
Bacillus
thuần
chủng
trong
mỗi
mẫu
chuẩn
bị,
duy
trì
khả
năng
sống
của
vi
khuẩn
đủ
thời
gian
làm
thí
nghiệm.
Thả
tôm
PL30
với
mật
độ
52
con/m2
có
sục
khí
ở
mỗi
bể
(có
tất
cả
9
bể).
Chăm
sóc
quản
lý
thật
cẩn
thận,
theo
dõi
sức
khỏe
tôm
hằng
ngày
để
có
những
xử
lý
phù
hợp
khi
bất
thường
xảy
ra.
Thí
nghiệm
bao
gồm
3
nội
dung:
(a)
là
chế
độ
cho
ăn
bình
thường
để
làm
mẫu
đối
chứng
(không
có
men
vi
sinh),
(b)
là
chế
độ
cho
ăn
chứa
Bacillus
dạng
đông
khô
(FB),
(c)
thêm
vào
nước
nuôi
chủng
vi
sinh
Bacillus
dạng
vi
bọc
(MB).
Trong
trường
hợp
MB
tôm
được
cho
ăn
bình
thường
và
mỗi
bể
là
một
loài
Bacillus
khác
nhau.
Mỗi
ngày
bổ
sung
3
lần
để
đảm
bảo
nồng
độ
cuối
cùng
là
107 CFU/ml.
Chuẩn
bị
mầm
bệnh V.
harveyi,
xác
định
nồng
độ
gây
chết
LD50
theo
một
nghiên
cứu
trước
đây
là
LD50
=1x107 CFU/ml
(theo
Reed
và
Muench
1983).
Sau
đó
kiểm
tra
sự
nhiễm
trùng,
các
dấu
hiệu
của
bệnh
xảy
ra,
tỉ
lệ
sống,
tỉ
lệ
tử
vong
của
tôm
thí
nghiệm.
Lấy
mẫu
từ
tôm
rồi
nuôi
cấy,
phân
lập
vi
khuẩn
trên
môi
trường
TCBS,
sau
đó
xác
định
hình
dạng
và
đặc
điểm
sinh
hóa,
giải
trình
tự
gen
của
chúng.
Đồng
thời
cũng
lấy
mẫu
nước
và
phân
rồi
phân
lập
vi
khuẩn
trên
các
đĩa
cấy.
Chiết
tách
DNA
của
vi
khuẩn,
chạy
PCR
để
khuếch
đại
các
đoạn
gen
cần
thiết
cho
nghiên
cứu.
Cuối
cùng
là
phân
tích
thống
kê
để
xác
định
hiệu
quả
của
việc
điều
trị.
Kết
quả
Sau
30
ngày
cho
ăn
nhận
thấy
có
sự
tăng
trọng
lượng
của
nhóm
FB
và
MB
so
với
nhóm
đối
chứng.
Tỷ
lệ
sống
của
nhóm
đối
chứng
là
86,7%
nhưng
trong
2
nhóm
FB
và
MB
lên
tới
96%
và
95,3%.
Tỷ
lệ
chết
tích
lũy
ở
nhóm
đối
chứng
là
63,06%,
trong
2
nhóm
còn
lại
lần
lượt
là
43,24%
và
45,05%.
Một
số
biểu
hiện
được
ghi
nhận
trên
tôm
thấy
được
là
biếng
ăn,
lờ
đờ
trên
mặt
nước.
Bên
trong
ruột
trống
và
chứa
nhiều
chất
nhầy,
bị
viêm
sưng
và
xuất
huyết,
gan
tụy
tôm
có
màu
xám
và
sưng
phù.
Tỷ
lệ
Bacillus
trong
mẫu
tôm
rất
cao
trong
2
nhóm
FB
và
MB,
nhưng
cả
hai
đều
giảm
mạnh
sau
khi
nhiễm V.
harveyi và
duy
trì
ổn
định
sau
đó.
Bacillus
chiếm
ưu
thế
trong
nhóm
FB
và
MB,
trong
đó
MB
cao
hơn
so
với
FB.
Sau
thí
nghiệm,
tỉ
lệ
V.
harveyi
ở
tôm
trong
2
nhóm
FB
và
MB
thấp
hơn
rất
nhiều
so
với
nhóm
đối
chứng.
Số
lượng
Bacillus
tỉ
lệ
nghịch
với
số
lượng V.
harveyi đếm
được
trong
các
nhóm.
Theo
dõi
các
chỉ
tiêu
chất
lượng
nước
cho
thấy
các
điều
kiện
đều
có
thể
chấp
nhận
được
cho
sự
phát
triển
với
tôm.
Thảo
luận
Bacillus
theo
thức
ăn
và
nguồn
nước
vào
bề
mặt
niêm
mạc
ruột
tôm,
cạnh
tranh
chất
dinh
dưỡng
và
chỗ
bám
với
các
vi
khuẩn
gây
bệnh.
Bacillus
được
nghiên
cứu
là
có
khả
năng
sản
xuất
các
enzyme
ngoại
bào
giúp
tăng
cường
khả
năng
tiêu
hóa
và
hấp
thu
chất
dinh
dưỡng,
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn.
Hơn
nửa,
Bacillus
còn
có
khả
năng
sinh
tổng
hợp
vitamin,
coenzyme,
các
amino
acid,….
Chúng
hoạt
động
như
một
nguồn
dinh
dưỡng
bổ
sung
trong
đường
ruột
tôm.
Mặc
dù
không
có
sự
khác
biệt
về
kết
quả
của
phương
pháp
đông
khô
và
vi
bọc
trong
nghiên
cứu
này.
Tuy
nhiên
việc
sử
dụng
hình
thức
vi
bọc
phần
nào
ưu
thế
hơn
trong
việc
cải
thiện
hiệu
suất
tăng
trưởng
và
tỉ
lệ
sống
của
tôm.
Bacillus
có
khả
năng
sản
xuất
các
chất
ức
chế
dạng
như
kháng
sinh
đơn
lẻ
hay
dạng
kết
hợp.
Nghiên
cứu
trước
đây
chứng
minh
Bacillus
có
tác
dụng
ức
chế
đối
với V.
parahaemolyticus và V.
cholerea gây
bệnh
trong
đường
tiêu
hóa
của
tôm
sú.
Sự
bảo
vệ
trước
tác
hại
của V.
harveyi
của
Bacillus
đã
được
chứng
minh
có
hiệu
quả
ở
tôm
sú,
tôm
càng
xanh
và
một
số
loài
khác.
Quan
sát
được
tôm
sống
sót
có
chỉ
số
thực
bào
cao
hơn,
hoạt
động
miễn
dịch,
hoạt
động
kháng
khuẩn,
số
lượng
tế
bào
máu
cũng
tăng
lên
đáng
kể.
Vi
sinh
dạng
vi
bọc
có
khả
năng
bảo
vệ
vượt
trội
hơn
dạng
đông
khô
để
chống
lại
v.
harveyi
gây
bệnh
ở
tôm
thẻ
chân
trắng.
Mặc
dù
chưa
rõ
cơ
chế
họat
động,
nhưng
những
hiệu
quả
mang
lại
được
thấy
rõ
là
giúp
cân
bằng
hệ
vi
sinh
trong
đường
ruột
tôm,
giảm
tỉ
lệ
tử
vong
khi
nhiễm
các
bệnh
do
vibrio
sp.
gây
ra.
Đồng
thời
giúp
tôm
giảm
bớt
những
tổn
thương
ở
gan
tụy
và
ruột.
Quorum
Sensing
là
một
phương
tiện
mà V.
harveyi sử
dụng
để
sản
xuất
độc
lực
của
chúng
là
haemolysin.
Tuy
nhiên
chủng
Bacillus
có
khả
năng
cắt
đứt
các
tín
hiệu
phát
động
để
sản
xuất
ra
độc
lực
này
của
vi
khuẩn.
Và
vì
thế
một
màng
bảo
vệ
được
hình
thành
bởi
Bacillus,
ngăn
cản
quá
trình
sản
sinh
độc
lực
của V.harveyi.
Màng
vi
bọc
có
chứa
Alginate
là
một
chất
kích
thích
miễn
dịch
đối
với
tôm.
Một
số
loài
Bacillus
đã
được
chứng
minh
là
có
khả
năng
ngăn
chặn
sự
tích
tụ
của
các
chất
thải
chứa
nitơ
(NH3,
NO2…)
thông
qua
các
quá
trình
nitrat
hóa
hoặc
khử
nitơ
hiếu
khí,
qua
đó
cải
thiện
chất
lượng
nước.
Nghiên
cứu
này
cũng
chỉ
ra
rằng
Bacillus
đông
khô
và
vi
bọc
là
có
hiệu
quả
tương
đương
nhau
về
mặt
thúc
đẩy
sự
tăng
trưởng
và
cải
thiện
chất
lượng
nước,
chống
lại
vi
khuẩn
V.
harveyi.
Tuy
nhiên
sự
ổn
định
và
tỉ
lệ
sống
của
Bacillus
vi
bọc
cần
được
nghiên
cứu
thêm.