Diện
tích
nuôi
trồng
thủy
sản
ngày
một
tăng
dẫn
đến
nhu
cầu
thức
ăn
thủy
sản
ngày
càng
lớn.
Việc
phát
triển
sản
xuất
thức
ăn
là
cần
thiết,
tuy
nhiên,
còn
nhiều
rào
cản
để
lĩnh
vực
này
tăng
tốc.
Phụ
thuộc
nguyên
liệu
đầu
vào
Bột
cá
và
dầu
cá
là
hai
nguồn
cung
cấp
chính
chất
đạm
và
chất
béo
cho
thức
ăn
thủy
sản,
đặc
biệt
là
thức
ăn
cho
tôm
biển
và
cá
biển.
Bột
cá
và
dầu
cá
chiếm
hàm
lượng
khoảng
70%
trong
thức
ăn
cá
biển
và
50%
trong
thức
ăn
cho
tôm.
Tuy
nhiên,
nguồn
lợi
bột
cá
là
có
hạn,
giá
bột
cá
tăng
hàng
năm
do
sản
lượng
bột
cá
giảm
cũng
như
nhu
cầu
sử
dụng
trực
tiếp
một
số
loại
cá
nhỏ
làm
thức
ăn
cho
con
người
tăng.
Hơn
thế,
các
nguyên
liệu
này
đa
số
đều
nhập
từ
nước
ngoài,
khiến
chi
phí
và
tính
phụ
thuộc
càng
nhiều.
Điều
này
ảnh
hưởng
lớn
đến
giá
thành,
chất
lượng
và
tính
chủ
động
của
nhà
máy
sản
xuất
thức
ăn.
Khó
tìm
nguyên
liệu
thay
thế
Việc
giảm
hoặc
thay
thế
bột
cá
và
dầu
cá
là
yêu
cầu
cấp
thiết
cho
ngành
sản
thức
ăn
thủy
sản
hiện
nay.
Các
loại
đạm
thực
vật
(bột
đậu
tương,
bột
mì,
gluten
ngô…)
được
sử
dụng
để
thay
thế
bột
cá
bởi
tính
sẵn
có
và
hàm
lượng
đạm
tương
đối
cao,
điều
này
giúp
chủ
động
trong
sản
xuất
và
giảm
giá
thành
thức
ăn.
Tuy
nhiên,
thực
vật
thường
chứa
các
chất
kháng
dinh
dưỡng,
ức
chế
quá
trình
hấp
thu
chất
dinh
dưỡng
của
vật
nuôi.
Thêm
vào
đó,
việc
mất
cân
bằng
các
amino
acid
hay
các
chất
béo
thiết
yếu
trong
đạm
thực
vật
cũng
cản
trở
tăng
trưởng
của
vật
nuôi.
Làm
sao
để
giảm
được
tỷ
lệ
bột
cá
và
sử
dụng
hiệu
quả
các
loại
đạm
thực
vật
cũng
là
mục
tiêu
của
các
nhà
máy
sản
xuất
thức
ăn
thủy
sản
hiện
nay.
Biến
động
giá
cả
Việc
tiêu
thụ
sản
phẩm
thủy
sản
ngày
càng
gặp
khó
khăn
bởi
các
quy
định
gắt
gao
của
thị
trường.
Để
đáp
ứng
được
các
yêu
cầu
này
người
nuôi
phải
tăng
các
chi
phí
nguyên
liệu
thô
và
vận
hành
trang
trại,
trong
khi
giá
sản
phẩm
không
tăng
hoặc
thậm
chí
bị
giảm,
nên
người
nuôi
phải
tìm
cách
giảm
các
chi
phí
sản
xuất
để
duy
trì
lợi
nhuận.
Việc
giảm
chi
phí
sản
xuất
đồng
nghĩa
với
việc
giảm
chi
phí
cho
thức
ăn.
Việc
giảm
giá
thành
nhưng
không
được
giảm
chất
lượng
thức
ăn
cũng
là
một
trong
những
khó
khăn
của
việc
phát
triển
thức
ăn
thủy
sản.
Vấn
đề
sử
dụng
thức
ăn
Tại
các
nước
đang
phát
triển
như
Việt
Nam,
NTTS
quy
mô
nhỏ
khá
phổ
biến.
NTTS
quy
mô
nhỏ
với
chi
phí
đầu
tư
thấp,
nguồn
vốn
hạn
chế
nên
việc
tận
dụng
các
nguyên
liệu
trong
quá
trình
nuôi
được
ưu
tiên,
trong
đó
có
thức
ăn.
Người
nuôi
sẽ
tận
dụng
các
nguồn
có
chi
phí
thấp
như
cá
tạp
hay
phế
phụ
phẩm
nông
nghiệp.
Mặc
dù,
các
nguồn
này
có
hệ
số
tiêu
thụ
thức
ăn
cao
(FCR
đối
với
cá
tạp
=
8
-
10,
FCR
đối
với
cỏ=
10
-
15),
ô
nhiễm
môi
trường,
dịch
bệnh
tiềm
ẩn,
nhưng
chi
phí
bỏ
ra
thấp,
không
cần
kho
lưu
giữ,
nên
vẫn
được
nhiều
hộ
dân
sử
dụng.
Việc
sử
dụng
các
loại
thức
ăn
này
ảnh
hưởng
đến
sức
tiêu
thụ
thức
ăn
công
nghiệp.
Thiếu
dữ
liệu
thông
tin
Đã
có
nhiều
nghiên
cứu
về
nhu
cầu
dinh
dưỡng
của
vật
nuôi,
nhưng
các
nghiên
cứu
này
được
tiến
hành
chủ
yếu
trong
môi
trường
phòng
thí
nghiệm
chứ
không
phải
trong
điều
kiện
nuôi
thực
tế
như
lồng
nuôi,
ao
nuôi.
Nuôi
trong
quy
mô
phòng
thí
nghiệm
các
yếu
tố
thức
ăn
và
môi
trường
có
thể
duy
trì
ở
mức
độ
tối
ưu
nhưng
khi
nuôi
ngoài
tự
nhiên
thì
việc
điều
khiển
các
yếu
tố
này
trở
nên
tương
đối.
Vẫn
chưa
có
nhiều
nghiên
cứu
về
ảnh
hưởng
của
các
yếu
tố
môi
trường,
thức
ăn
tươi
sống
có
sẵn
tác
động
như
thế
nào
đến
nhu
cầu
dinh
dưỡng
thực
tế
của
các
loài
nuôi.
Điều
này
khiến
cho
việc
phát
triển
thức
ăn
thủy
sản
gặp
khó
khăn
trong
việc
xây
dựng
công
thức
tối
ưu
cho
loài
nuôi
trong
điều
kiện
nuôi
thực
tế,
chưa
có
thức
ăn
chuyên
biệt
cho
từng
loài
dẫn
đến
FCR
còn
cao.
Vấn
đề
pháp
lý
Những
yêu
cầu
về
bảo
vệ
môi
trường
nuôi
và
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm
cho
vật
nuôi
ngày
càng
được
yêu
cầu
khắt
khe
hơn.
Điều
này
cũng
liên
quan
đến
thức
ăn
sử
dụng
trong
NTTS.
Thức
ăn
thủy
sản
phải
đảm
bảo
có
những
ảnh
hưởng
tích
cực
đến
môi
trường:
hệ
số
tiêu
thụ
thức
ăn
thấp,
thời
gian
hòa
tan
trong
nước
chậm,
không
chứa
các
yếu
tố
gây
hại
cho
môi
trường.
Ngoài
ra,
thức
ăn
không
được
chứa
các
chất
cấm
theo
danh
mục
hay
hàm
lượng
vượt
tiêu
chuẩn,
các
chất
này
sẽ
tích
lũy
trong
cơ
thể
cá
sau
thu
hoạch
không
đáp
ứng
được
yêu
cầu
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm.
Các
yêu
cầu
này
sẽ
ảnh
hưởng
đến
sản
phẩm
xuất
khẩu
gây
ra
những
bất
cập
cho
sản
xuất
thức
ăn.
Ngoài
các
vấn
đề
được
đề
cập
như
trên
thì
một
số
các
bất
lợi
khác
như
công
nghệ
dây
chuyền
sản
xuất
lạc
hậu,
nhận
thức
của
người
nuôi
chưa
cao,
các
quy
định
khác
nhau
ở
các
thị
trường…
cũng
có
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
phát
triển
sản
xuất
thức
ăn
thủy
sản.