Một
trong
những
sản
phẩm
tiên
tiến
từ
nguồn
protein
ngô,
có
thành
phần
dinh
dưỡng
tốt
hơn
bột
gluten
ngô
(CGM)
là
protein
ngô
cô
đặc
(CPC).
Theo
Galkanda-Arachchige
et
al.
(2021),
CPC
là
một
trong
những
nguồn
protein
ngô
được
sản
xuất
có
nguồn
gốc
từ
nội
nhũ
sau
khi
loại
bỏ
phần
lớn
các
thành
phần
không
phải
protein
bằng
cách
hòa
tan
bằng
enzyme
của
dòng
protein
thu
được
từ
quá
trình
xay
ướt.
Gần
đây,
nghiên
cứu
của
Galkanda-Arachchige
et
al.
(2021)
đã
báo
cáo
về
việc
sử
dụng
protein
ngô
lên
men
cô
đặc
(FCPC)
với
hàm
lượng
protein
cao
(~69,10%),
ít
chất
xơ
và
chứa
các
đặc
tính
của
một
probiotic
để
thay
thế
việc
sử
dụng
FM
trong
thức
ăn
của
TTCT
đã
cho
kết
quả
khả
quan
về
tăng
trưởng.
Tuy
nhiên,
ảnh
hưởng
của
việc
thay
thế
hoàn
toàn
FM
và
thay
thế
một
phần
FM
và
bột
phụ
phẩm
gia
cầm
(PBM)
bằng
FCPC
có
hoặc
không
có
bột
nhuyễn
thể
(KM)
đối
với
sự
tăng
trưởng
và
tình
trạng
sức
khỏe
của
tôm
vẫn
chưa
được
nghiên
cứu.
Do
đó,
nghiên
cứu
gần
đây
của
Đại
học
Diponegoro
(Indonesia)
đã
được
tiến
hành
nhằm
xác
định
ảnh
hưởng
của
việc
sử
dụng
FCPC
kết
hợp
với
hoặc
không
kèm
theo
KM
để
thay
thế
hoàn
toàn
và
một
phần
FM
và/hoặc
PBM
đối
với
năng
suất
tăng
trưởng,
thành
phần
cơ
thể,
một
số
chỉ
tiêu
miễn
dịch,
hệ
vi
sinh
vật
đường
ruột,
khả
năng
chống
chịu
với
thay
đổi
độ
mặn
cấp
tính
và
tình
trạng
mô
học
của
TTCT.
Xây
dựng
nghiệm
thức
Tất
cả
công
thức
thức
ăn
ở
các
nghiệm
thức
đều
được
xây
dựng
theo
công
thức
iso-nitro
và
iso-lipidic
(40%
protein
và
6%
lipid).
Trong
thí
nghiệm
này,
chế
độ
ăn
cơ
bản
được
thiết
kế
với
PBM,
bột
đậu
nành
(SBM),
FM
và
bột
mì
(WF)
làm
thành
phần
chính.
Chế
độ
ăn
đối
chứng
được
thiết
kế
dựa
trên
cách
tiếp
cận
tương
tự
ở
thị
trường
Indonesia
bằng
cách
sử
dụng
lần
lượt
25%,
20%,
9%
và
32,5%
SBM,
PBM,
FM
và
WF.
Bốn
chế
độ
ăn
thử
nghiệm
đã
được
xây
dựng
để
bao
gồm
việc
sử
dụng
chất
cô
đặc
protein
ngô
lên
men
(FCPC,
MOTIV®,
Cargill
Starches,
Sweet
Sweet
và
Texturizers,
Cargill,
Inc.,
Blair,
NE,
USA)
để
thay
thế
một
phần
việc
sử
dụng
bột
động
vật
và
có
thành
phần
được
thể
hiện
theo
bảng
sau:
Bảng
1.
Thành
phần
(%
nguyên
trạng)
của
khẩu
phần
có
chứa
protein
cô
đặc
ngô
lên
men
trong
công
thức
chế
độ
ăn
thương
mại
để
thay
thế
FM
và
PBM
cho
tôm
trong
60
ngày
Thử
nghiệm
Thí
nghiệm
được
bố
trí
tiến
hành
trong
một
hệ
thống
tuần
hoàn
bán
phần
tại
Công
viên
Công
nghệ
Khoa
học
Hàng
hải,
Đại
học
Diponegoro
(Jepara,
Trung
Java,
Indonesia).
750
cá
thể
TTCT
được
lấy
từ
PT.
Riz
Samudera
(Jepara,
Central
Java,
Indonesia)
và
nuôi
thích
nghi
bằng
thức
ăn
công
nghiệp
(Feng
Li™,
Matahari
Sakti,
Surabaya,
East
Java,
Indonesia)
trong
3
tuần
cho
đến
khi
chúng
đạt
kích
thước
và
tình
trạng
sức
khỏe
phù
hợp.
Tôm
có
trọng
lượng
trung
bình
ban
đầu
là
1,01
±
0,04
(g)
sau
đó
được
phân
bố
ngẫu
nhiên
vào
50
bể
có
kích
thước
70
×
35
×
40
cm
(98
l/bể)
và
được
kết
nối
với
một
bể
chứa
chung
(3000
l).
10
nhóm
tôm
lặp
lại
được
quản
lý
các
loại
chế
độ
ăn
thử
nghiệm
khác
nhau
bằng
cách
sử
dụng
quy
trình
tiêu
chuẩn
nghiên
cứu
dinh
dưỡng
trong
60
ngày
và
cho
ăn
4
lần/ngày,
vào
lúc
07:00,
11:00,
15:00
và
20:00.
Lượng
thức
ăn
cho
phép
hàng
ngày
được
điều
chỉnh
dựa
trên
mức
tiêu
thụ
thức
ăn
quan
sát
được,
số
lượng
tôm
hàng
tuần
và
tỷ
lệ
sống.
Thức
ăn
thừa,
phân
và
vỏ
tôm
được
loại
bỏ
bằng
cách
xiphong
bể
trước
lần
cho
ăn
đầu
tiên.
Về
thu
thập
số
liệu
thô,
tôm
được
cân
theo
nhóm
và
sinh
khối
cuối
(g),
trọng
lượng
trung
bình
cuối
(g),
tỷ
lệ
sống
(%),
phần
trăm
tăng
trọng
(PWG,
%),
tỷ
lệ
chuyển
đổi
thức
ăn
và
hệ
số
tăng
trưởng
nhiệt
được
xác
định.
Đối
với
phân
tích
chất
lượng
nước:
pH,
ôxy
hòa
tan
(DO),
nhiệt
độ
nước
và
độ
mặn
được
theo
dõi
2
lần/ngày
(08:00
và
16:00)
bằng
máy
kiểm
tra
nước
đa
thông
số
(HACH,
HQ40D,
Loveland,
CO).
Tổng
amoniac-nitơ
(NH3-N)
và
nitrat-nitơ
(NO3-N)
được
đo
1
tuần/lần
bằng
phương
pháp
Indophenol
và
phương
pháp
đo
quang
phổ
(Perkin
Elmer,
Lambda
XLS,
USA),
tương
ứng.
Ngoài
ra,
các
chỉ
tiêu
về
thành
phần
cơ
thể,
tế
bào
máu,
hoạt
tính
lysozyme,
vi
sinh
gan
tụy,
thích
nghi
với
sốc
độ
mặn
và
hình
thái
mô
học
được
thực
hiện
phân
tích
theo
các
phương
pháp
sẵn
có.
Kết
quả
Kết
quả
về
hiệu
suất
tăng
trưởng
và
tỷ
lệ
sống
của
TTCT
được
nuôi
bằng
chế
độ
ăn
thử
nghiệm
được
trình
bày
trong
Bảng
2,
sinh
khối
cuối
cùng
(Bio),
trọng
lượng
trung
bình
cuối
cùng
(FMW)
và
hiệu
quả
tăng
trưởng
nhiệt
(TGC)
bị
ảnh
hưởng
đáng
kể
bởi
các
nghiệm
thức
(p
<
0,05).
Trong
khi
đó,
các
nghiệm
thức
thí
nghiệm
không
ảnh
hưởng
đáng
kể
đến
tỷ
lệ
sống
(SR),
tỷ
lệ
tăng
trọng
(PWG)
và
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
(FCR).
Khi
kết
thúc
thí
nghiệm,
có
sự
gia
tăng
đáng
kể
về
năng
suất
tăng
trưởng
khi
7,5%
FCPC
và
1,5%
KM
được
sử
dụng
để
thay
thế
việc
sử
dụng
FM
trong
chế
độ
ăn.
Việc
bổ
sung
7,5%
FCPC
kết
hợp
với
9%
FM
để
thay
thế
một
phần
việc
bổ
sung
PBM
cũng
mang
lại
sự
gia
tăng
đáng
kể
về
sinh
khối,
FMW
và
TGC
của
tôm
so
với
nghiệm
thức
đối
chứng.
Điều
thú
vị
là,
việc
sử
dụng
mức
FCPC
tương
tự
kết
hợp
với
1%
(FCPC2)
và
0%
KM
(FCPC3)
để
thay
thế
một
phần
FM
và
PBM
mang
lại
sự
tăng
trưởng
tương
tự
với
tôm
được
cho
ăn
9%
FM
hoặc
chế
độ
ăn
đối
chứng.
Bảng
2: Kết
quả
về
tăng
trưởng
của
tôm
(trọng
lượng
ban
đầu
trung
bình
4,24
±
0,03
g)
được
cho
ăn
khẩu
phần
thí
nghiệm
trong
70
ngày
Các
nghiệm
thức
thử
nghiệm
có
ảnh
hưởng
đáng
kể
đến
hoạt
động
lysozyme
của
tôm
nhưng
không
ảnh
hưởng
đến
tổng
số
lượng
tế
bào
máu.
Việc
bổ
sung
7,5%
FCPC
có
hoặc
không
có
KM
có
thể
tăng
cường
hoạt
động
lysozyme
của
tôm
so
với
nhóm
đối
chứng.
Đối
với
chỉ
số
về
tổng
số
vi
khuẩn
trong
gan
tụy
của
tôm,
theo
thống
kê,
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
nào
được
ghi
nhận
giữa
các
nghiệm
thức
(p
>
0,05).
Tuy
nhiên,
về
mặt
số
lượng,
tổng
số
lượng
vi
khuẩn
(CFU/g)
cao
hơn
ở
nhóm
tôm
được
cho
ăn
bằng
thức
ăn
đối
chứng
mà
không
có
bất
kỳ
FCPC
nào
trong
công
thức.
Tổng
số
vi
khuẩn
trong
môi
trường
nuôi
cấy
trong
quá
trình
thử
nghiệm
tăng
trưởng
như
trong
Bảng
2
nằm
trong
khoảng
(16,62
±
11,81)×104
(CFU/ml).
Gan
tụy
của
tôm
là
cơ
quan
tiêu
hóa
chính
và
có
thể
bị
ảnh
hưởng
nặng
nề
bởi
các
tác
nhân
gây
bệnh
bao
gồm
cả
vi
khuẩn.
Dựa
trên
phân
tích,
phương
pháp
trải
đĩa
không
cho
thấy
bất
kỳ
sự
khác
biệt
đáng
kể
nào
về
số
lượng
vi
khuẩn
trong
gan
tụy
của
tôm.
Tuy
nhiên,
về
mặt
sinh
học,
có
thể
thấy
rằng
số
lượng
vi
khuẩn
trong
tôm
được
nuôi
bằng
FCPC
có
hoặc
không
có
KM
để
thay
thế
một
phần
thức
ăn
động
vật
cung
cấp
số
lượng
vi
khuẩn
thấp
nhất
so
với
nghiệm
thức
đối
chứng.
Với
ảnh
hưởng
của
FCPC
đối
với
tình
trạng
sinh
lý
của
tôm
trong
thử
nghiệm
căng
thẳng
với
độ
mặn,
tôm
ở
các
nghiệm
thức
không
được
cho
ăn
khẩu
phần
có
FCPC
có
tỷ
lệ
chết
cao
nhất
sau
1
giờ
sau
khi
ngâm
trong
nước
ngọt
(0
‰)
(P1H
=
sau
1
giờ)
so
với
tôm
được
xử
lý.
Sau
2
giờ
(P2H),
tỷ
lệ
tôm
chết
ở
tất
cả
các
nhóm
liên
tục
tăng
kể
cả
nhóm
tôm
được
nuôi
bằng
FCPC.
Nhìn
chung,
ở
P2H,
tỷ
lệ
tử
vong
thấp
nhất
được
tìm
thấy
ở
nhóm
FCPC1
và
FCPC2,
trong
khi
về
mặt
thống
kê
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
tỷ
lệ
tử
vong
giữa
nhóm
đối
chứng,
FCPC3
và
FCPC4
(p
=
0,018).
Kết
quả
của
nghiên
cứu
này
chỉ
ra
rằng
việc
đưa
nguyên
liệu
protein
cô
đặc
từ
ngô
lên
men
(FCPC)
vào
thức
ăn
của
TTCT
đã
cải
thiện
đáng
kể
năng
suất
tăng
trưởng
và
hoạt
động
lysozyme
của
tôm.
Việc
bổ
sung
FCPC
đã
cải
thiện
sức
đề
kháng
của
tôm
chống
lại
tình
trạng
căng
thẳng
do
độ
mặn
thấp
cấp
tính
cũng
như
số
lượng
vi
khuẩn
hiện
diện
trong
gan
tụy
thấp.
Việc
sử
dụng
FCPC
kết
hợp
với
KM
và
FM
gây
ra
lượng
mỡ
dư
thừa
trong
các
tế
bào
không
bào
của
gan
tụy
ở
tôm.
Tuy
nhiên,
điều
kiện
không
ảnh
hưởng
đáng
kể
đến
hiệu
suất
tăng
trưởng
của
tôm.
Tuy
nhiên,
cần
có
các
nghiên
cứu
sâu
hơn
để
làm
rõ
phương
thức
hoạt
động
của
FCPC
đối
với
các
gen
biểu
hiện
hoạt
động
của
THC
và
lysozyme
trong
phân
tích
chuỗi
thời
gian
cũng
như
để
hiểu
rõ
hơn
về
tác
động
bao
gồm
của
FCPC
đối
với
tình
trạng
gan
tụy
và
năng
suất
tăng
trưởng
của
tôm
trong
thử
nghiệm
tăng
trưởng
dài
hạn
sử
dụng
hệ
thống
sản
xuất
tôm
thương
phẩm.