Mô
hình
này
được
Tập
Đoàn
Việt
-
Úc
áp
dụng,
đến
nay
đã
đạt
được
nhiều
thành
công.
INVE
Aquaculture
cộng
tác
chặt
chẽ
với
Việt
-
Úc
trong
việc
quản
lý
và
điều
hành
hoạt
động
sản
xuất
tôm
giống
và
nuôi
tôm
thương
phẩm
nhằm
tối
ưu
hóa
các
quy
trình
kỹ
thuật
và
điều
hành
sản
xuất.
Nhìn
chung
trên
toàn
cầu,
trong
30
năm
qua,
nguy
cơ
nhiễm
bẩn
do
dịch
bệnh
không
ngừng
tăng
lên
theo
thời
gian,
đặc
biệt
trong
15
năm
trở
lại
đây,
sự
gia
tăng
mạnh
của
các
bệnh
do
vi
khuẩn
đã
tàn
phá
nhiều
trang
trại,
gây
thiệt
hại
lớn
cho
các
hộ
nuôi.
Việc
đầu
tư
xây
dựng
các
hệ
thống
nuôi
tôm
trong
nhà
kính
đảm
bảo
an
toàn
sinh
học
tốt
hơn
so
với
các
ao
nuôi
ngoài
trời,
nhờ
việc
giảm
thiểu
đáng
kể
tiếp
xúc
với
các
nguồn
ô
nhiễm
từ
môi
trường
chung
quanh.
Tuy
nhiên,
việc
phòng
ngừa
bằng
hệ
thống
nuôi
trong
nhà
kính
cần
phải
được
xem
chỉ
là
bước
khởi
đầu;
thực
ra
hệ
thống
nuôi
trong
nhà
kính
sẽ
không
đạt
đến
mức
an
toàn
sinh
học
toàn
diện
nếu
vẫn
còn
áp
dụng
chế
độ
thay
nước
trong
quá
trình
nuôi.
Ngoài
khả
năng
lây
nhiễm
mầm
bệnh
theo
tôm
giống
thả
nuôi,
nước
nhiễm
khuẩn
vẫn
là
nguồn
nguy
cơ
lây
nhiễm
cao
nhất
trong
nuôi
tôm
thương
phẩm.
Nhằm
đạt
đến
mức
an
toàn
sinh
học
cao
nhất
khi
nuôi
tôm
trong
nhà
kính
cần
phải
kiểm
soát
quá
trình
sản
xuất
sao
cho
không
cần
phải
lấy
thêm
nước
mới
vào
ao
nuôi
kể
từ
khi
thả
giống
cho
đến
khi
thu
hoạch.
Phương
pháp
và
bố
trí
tổng
thể
Từ
giữa
năm
2015
đến
nay,
INVE
và
Việt
-
Úc
đã
triển
khai
nhiều
đợt
nuôi
tôm
thực
nghiệm
với
quy
mô
sản
xuất
thương
mại.
Các
thực
nghiệm
sản
xuất
này
được
thiết
kế
nhằm
giới
thiệu
quy
trình
nuôi
tôm
không
thay
nước
của
INVE,
cùng
với
việc
sử
dụng
bộ
sản
phẩm
hoàn
chỉnh
của
INVE
dùng
trong
nuôi
tôm
thương
phẩm.
Việc
chuyển
giao
quy
trình
công
nghệ
của
INVE
cho
Việt
-
Úc
đã
đáp
ứng
được
các
yêu
cầu
của
Việt
-
Úc,
thể
hiện
tính
phù
hợp
cao
với
các
điều
kiện
thực
tế
tại
địa
phương,
tạo
nên
một
hệ
thống
sản
xuất
đơn
giản,
dễ
nhân
rộng
là
yêu
cầu
thiết
yếu
đối
với
kế
hoạch
mở
rộng
hoạt
động
nuôi
tôm
thương
phẩm
theo
chiến
lược
phát
triển
của
Việt
-
Úc.
Cho
đến
nay,
đã
hoàn
thành
5
đợt
sản
xuất,
với
trên
100
ao
nuôi
thương
phẩm.
Hai
đợt
nuôi
thử
nghiệm
đầu
tiên
được
thiết
kế
nhằm
khẳng
định
tính
khả
thi
của
quy
trình
nuôi
tôm
không
thay
nước;
đợt
đầu
với
quy
mô
thăm
dò
và
đợt
sau
với
quy
mô
nuôi
thương
mại.
Sau
thành
công
của
2
đợt
đầu
tiên,
các
đợt
sản
xuất
tiếp
theo
nhằm
mục
đích
tăng
năng
suất
với
các
mật
độ
thả
giống
cao
hơn.
Báo
cáo
này
tóm
tắt
các
kết
quả
đã
đạt
được,
giải
thích
phương
thức
tiếp
cận
vấn
đề
và
các
kết
quả
tương
ứng.
Toàn
bộ
các
đợt
thực
nghiệm
sản
xuất
đều
được
tiến
hành
trong
các
ao
lót
bạt,
độ
sâu
1,2
m.
Hệ
thống
sục
khí
bao
gồm
các
aero-tube
diffusers
1
inch
nối
với
máy
thổi
khí.
Mỗi
ao
lắp
2
dàn
quạt
dài
để
dự
phòng
khi
máy
thổi
khí
gặp
sự
cố.
Nước
dùng
cho
ao
nuôi
được
diệt
khuẩn
và
xử
lý
kỹ
nhằm
đảm
bảo
không
còn
mầm
bệnh.
Các
ao
nuôi
được
thả
tôm
giống
(PL10)
thuộc
các
dòng
đã
chọn
lọc
di
truyền
do
các
cơ
sở
sản
xuất
tôm
giống
thuộc
Việt
-
Úc
cung
cấp.
Thức
ăn
cho
tôm
sử
dụng
trong
quá
trình
nuôi
là
thức
ăn
chất
lượng
cao
có
hàm
lượng
protein
40%.
Từ
khi
thả
giống
đến
khi
tôm
đạt
cỡ
1
g
sử
dụng
thức
ăn
dạng
mảnh
cho
ăn
đều
bằng
tay,
giai
đoạn
tiếp
theo
dùng
thức
ăn
dạng
viên
và
cho
ăn
theo
chu
kỳ
24/24
giờ
bằng
máy
cho
ăn
tự
động
đặt
ở
giữa
ao
nuôi.
Nguyên
lý
quy
trình
nuôi
tôm
không
thay
nước
của
INVE
chủ
yếu
dựa
trên
sự
cạnh
tranh
loại
trừ
của
vi
khuẩn
với
việc
ứng
dụng
các
vi
khuẩn
hữu
ích
chọn
lọc
của
INVE.
Cũng
cần
lưu
ý
rằng
lưới
chắn
ánh
sáng
đã
được
căng
trên
mặt
ao
để
giảm
thiểu
cạnh
tranh
và
biến
động
các
yếu
tố
lý
hoá
học
do
quần
thể
thực
vật
phù
du
gây
nên.
Quy
trình
thực
nghiệm
căn
bản
Thiết
bị
và
bạt
lót
ao
được
khử
trùng
bằng
dung
dịch
Sanocare®PUR
nhằm
đảm
bảo
loại
bỏ
hoàn
toàn
mầm
bệnh
Trước
khi
thả
giống,
toàn
bộ
dụng
cụ,
thiết
bị
và
bạt
lót
ao
được
khử
trùng
bằng
dung
dịch
Sanocare®PUR
nhằm
đảm
bảo
loại
bỏ
hoàn
toàn
mầm
bệnh,
bao
gồm
cả
màng
sinh
học
vi
khuẩn.
Sau
khi
đã
cấp
đầy
nước
vào
ao
nuôi,
hoàn
toàn
không
thay
hoặc
cấp
bù
nước
cho
ao
trong
suốt
vụ
nuôi,
tuân
thủ
triệt
để
quy
trình
nuôi
tôm
không
thay
nước.
Trong
quá
trình
sản
xuất,
hai
sản
phẩm
đã
được
dùng
làm
nguồn
cấy
vi
khuẩn
hữu
ích
chọn
lọc,
hay
còn
gọi
là
probiotics,
gồm:
Sản
phẩm
Sanolife®PRO-W
dùng
để
quản
lý
chất
lượng
môi
trường
ao
nuôi
và
sản
phẩm
Sanolife®PRO-2
được
dùng
áo
viên
thức
ăn
để
điều
khiển
khu
hệ
vi
khuẩn
đường
ruột
của
tôm.
Cả
hai
sản
phẩm
này
chứa
một
tổ
hợp
các
loại
vi
khuẩn
để
nhằm
vào
nhiều
mục
tiêu:
Vi
khuẩn
cạnh
tranh
không
gian
sống
để
loại
trừ
Vibrio
sp.
trong
nước
và
màng
sinh
học
trên
các
bề
mặt
ao
nuôi
(sản
phẩm
PRO-W)
và
trên
biểu
mô
đường
ruột
của
tôm
(sản
phẩm
PRO-2);
Vi
khuẩn
cạnh
tranh
nguồn
dinh
dưỡng
với
Vibrio
sp.
(cf.
AHPND)
thông
qua
giảm
thiểu
sản
sinh
các
chất
thải
hữu
cơ
(sản
phẩm
PRO-W);
Vi
khuẩn
cạnh
tranh
nguồn
dinh
dưỡng
với
Vibrio
sp.
(cf.
AHPND)
thông
qua
kiểm
soát
có
hiệu
quả
hơn
các
phản
ứng
sinh
học
trong
quá
trình
nitrat
hóa
(sản
phẩm
PRO-W).
Cho
đến
nay,
tối
ưu
hóa
và
kiểm
soát
cho
được
các
công
đoạn
của
quá
trình
nitrat
hóa
chính
là
trở
ngại
lớn
nhất
trong
việc
xây
dựng
quy
trình
nuôi
khép
kín
hoàn
toàn
không
thay
nước
trên
toàn
cầu.
Thật
vậy,
các
hệ
thống
sản
xuất
phổ
biến
thuộc
loại
này,
thường
được
gọi
là
hệ
thống
nuôi
theo
công
nghệ
bioflocs,
chủ
yếu
vận
dụng
các
quá
trình
nitrat
hóa
bằng
vi
khuẩn
dị
dưỡng,
hoạt
động
trên
cơ
sở
tỷ
lệ
Carbon/Nitơ
(C/N)
thích
hợp
thông
qua
việc
bổ
sung
nguồn
carbon
ngoại
lai,
như
mật
rỉ
đường
vào
ao
nuôi.
Nếu
chỉ
đơn
thuần
dựa
trên
chu
trình
nitrat
hóa
này
thì
chưa
đủ
để
xử
lý
nguồn
nitơ
hình
thành
trong
ao
nuôi
tôm
hoàn
toàn
không
thay
nước.
Sự
gia
tăng
đột
ngột
hàm
lượng
Ammonia,
theo
sau
là
gia
tăng
đột
ngột
Nitrite
thường
tác
động
nghiêm
trọng
đến
chu
trình
sản
xuất
của
các
hệ
thống
nuôi
này.
Ngoài
ra,
quy
trình
nuôi
của
INVE,
tập
trung
đặc
biệt
vào
tháng
đầu
tiên
của
vụ
nuôi,
khi
hệ
sinh
thái
của
ao
nuôi
đang
hình
thành.
Trong
thời
gian
này,
loại
thức
ăn
bổ
sung
dùng
để
ương
tôm
giống
chất
lượng
cao
(Sano®S-PAK)
được
dùng
cho
cữ
ăn
đầu
tiên
hàng
ngày.
S-PAK
chứa
tập
hợp
hoàn
chỉnh
các
chất
kích
ứng
miễn
dịch
chọn
lọc
có
tác
dụng
hoạt
hóa
hệ
thống
miễn
dịch
của
tôm
để
chống
chịu
các
nhân
tố
gây
stress
trong
môi
trường
nuôi
(chẳng
hạn
mật
độ
cao).
Trong
giai
đoạn
tiếp
theo,
các
hoạt
chất
kích
ứng
miễn
dịch
có
trong
sản
Sano®S-PAK
được
cung
cấp
cho
tôm
bằng
việc
sử
dụng
sản
phẩm
Sano®TOP-S,
trộn
vào
thức
ăn
thông
thường
dùng
cho
tôm
nuôi.
Kết
quả
thực
nghiệm
Biểu
đồ
1:
Sinh
trưởng
trung
bình
của
tôm
nuôi
với
các
mật
độ
nuôi
thực
nghiệm
khác
nhau
theo
mô
hình
không
thay
nước
Biểu
đồ
1
cho
thấy,
với
mật
độ
thả
250
PL/m2
tôm
đạt
khối
lượng
thân
trung
bình
20
g/con
sau
90
ngày
nuôi;
với
mật
độ
500
PL/m2
tôm
đạt
cỡ
20
g
sau
100
ngày;
với
mật
độ
700
PL/m2
tôm
chỉ
đạt
trung
bình
17
g
sau
100
ngày
nuôi.
Biểu
đồ
2:
Biến
động
hàm
lượng
trung
bình
Ammonia
(NH3-N)
và
Nitrit
(NO2-N)
trong
các
ao
nuôi
theo
mô
hình
không
thay
nước.
Biểu
đồ
2
cho
thấy
rằng,
quy
trình
kỹ
thuật
này
đảm
bảo
kiểm
soát
tốt
hàm
lượng
nitơ
trong
suốt
vụ
nuôi.
Ammonia
(NH3-N)
được
khống
chế
dưới
ngưỡng
0,5
ppm
(hay
0,5
mg
N/L),
và
nitrit
(NO2-N)
dưới
mức
2
ppm.
Các
chỉ
số
này
đạt
giá
trị
cao
nhất
trong
2
tuần
nuôi
đầu
tiên,
khi
hệ
sinh
thái
của
ao
nuôi
đang
hình
thành
và
thích
nghi
dần
với
hệ
thống
nuôi.
Điều
này
khẳng
định
sự
cần
thiết
phải
tập
trung
chú
ý
của
nguời
nuôi
tôm
trong
tháng
nuôi
đầu
tiên.
Việc
sử
dụng
thức
ăn
chất
lượng
thượng
hảo
hạng
giúp
giảm
thiểu
lượng
thức
ăn,
nhưng
tôm
bắt
mồi
tốt
hơn,
là
cần
thiết
để
tối
ưu
hóa
quá
trình
chuyển
hóa
nitơ
trong
giai
đoạn
hình
thành
hệ
sinh
thái
quan
trọng
này.
Quy
trình
kiểm
soát
nitơ
này
cho
phép
loại
bỏ
hoàn
toàn
nhu
cầu
thay
nước
và
siphon
đáy,
nhờ
đó
gia
tăng
hữu
hiệu
an
toàn
sinh
học
của
hệ
thống
nuôi,
đồng
thời
giảm
thiểu
được
chi
phí
sản
xuất.
Do
không
phải
thay
nước
nên
giảm
được
chi
phí
năng
lượng
phục
vụ
cho
việc
chạy
máy
bơm
để
thay
nước.
Giá
thành
sản
xuất
còn
được
giảm
thiểu
nhờ
giảm
chi
phí
nhân
công
cần
thiết
để
siphon
đáy,
vận
hành
và
bảo
dưỡng
máy
bơm.
Với
mật
độ
thả
giống
250
PL/m2,
tôm
đạt
khối
lượng
thân
trung
bình
20
g
sau
khoảng
90
ngày
nuôi,
tỷ
lệ
sống
đạt
75%
và
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
(FCR)
là
1,3.
Nhờ
vào
việc
không
thay
nước
và
nuôi
khép
kín
trong
nhà
kính,
tác
động
của
biến
động
môi
trường
do
các
hiện
tượng
thời
tiết
bất
thường
đã
được
giảm
thiểu
triệt
để,
hệ
quả
là
kết
quả
sản
xuất
rất
ổn
định
qua
nhiều
đợt
sản
xuất
cả
ở
mức
độ
thực
nghiệm
lẫn
quy
mô
ứng
dụng
đại
trà
như
đã
tổng
hợp
trên
đây.
Mặt
khác,
việc
kiểm
soát
chất
lượng
nước
thông
qua
việc
khống
chế
tích
tụ
nitơ
và
sử
dụng
các
chế
phẩm
vi
sinh
hữu
ích
cùng
chế
phẩm
kích
ứng
miễn
dịch
chất
lượng
cao,
đã
làm
giảm
thiểu
rất
lớn
các
yếu
tố
môi
trường
gây
stress
lên
đàn
tôm
nuôi.
Hệ
quả
trực
tiếp
của
tác
động
này
thể
hiện
ở
sự
đồng
đều
về
kích
cỡ
của
đàn
tôm
nuôi
khi
thu
hoạch.
Cho
đến
nay,
việc
áp
dụng
quy
trình
của
INVE
tại
Tập
đoàn
Việt
-
Úc
đạt
hiệu
quả
kinh
tế
tối
ưu
ở
mật
độ
thả
giống
250
PL/m2.
Khi
tăng
mật
độ
thả
giống
lên
200%
(500
PL/m2)
thì
năng
suất
chỉ
tăng
được
150%.
Với
mật
độ
nuôi
siêu
thâm
canh
(tăng
280%,
ở
mức
700
PL/m2),
thì
năng
suất
cũng
chỉ
tăng
thêm
được
165%.
Sự
sai
khác
về
tốc
độ
sinh
trưởng,
tỷ
lệ
sống,
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
giữa
các
mật
độ
thả
nuôi
rất
ít
(dưới
5%);
nếu
xem
xét
đến
các
yếu
tố
này,
rõ
ràng
rằng
việc
gia
tăng
mật
độ
thả
nuôi
tuy
mang
lại
sản
lượng
cao
hơn
nhưng
mang
lại
hiệu
quả
kinh
tế
thấp
hơn
tính
trên
chi
phí
đầu
tư.
Nguyên
nhân
chủ
yếu
là
chi
phí
con
giống
và
thức
ăn
cao
hơn,
thời
gian
nuôi
dài
hơn.
Thủy
sản
Việt
nam