Là
khu
vực
nuôi
tôm
lớn
và
trọng
điểm
của
cả
nước,
tuy
nhiên
đến
nay,
việc
nuôi
tôm
ở
đây
vẫn
mang
tính
tự
phát.
Đây
là
một
trong
những
nguyên
nhân
khiến
tôm
nuôi
khu
vực
này
hiệu
quả
thấp
và
thiếu
bền
vững.
Do
vậy,
cấp
thiết
hiện
nay
là
quy
hoạch.
Xứng
danh
“anh
cả’
Trong
10
năm
qua,
ngành
tôm
nước
lợ
ĐBSCL
đã
có
sự
tăng
trưởng
vượt
bậc
cả
về
diện
tích,
sản
lượng
và
giá
trị
xuất
khẩu.
Cụ
thể,
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
toàn
vùng
năm
2014
đạt
604.954
ha,
tăng
trưởng
bình
quân
1,21%/năm
so
với
năm
2005
(541.982
ha);
sản
lượng
đạt
khoảng
532.896
tấn.
Diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
tập
trung
tại
8
tỉnh
ven
biển
gồm:
Long
An,
Tiền
Giang,
Bến
Tre,
Trà
Vinh,
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Kiên
Giang,
Cà
Mau
với
hai
đối
tượng
chính
là
tôm
sú
và
tôm
thẻ
chân
trắng
(TTCT).
TS
Nguyễn
Thanh
Tùng,
Viện
trưởng
Viện
Kinh
tế
và
Quy
hoạch
Thủy
sản
(VIFEP)
đánh
giá:
Nghề
nuôi
tôm
nước
lợ
ở
ĐBSCL
chiếm
vị
trí
đặc
biệt
quan
trọng
trong
chiến
lược
phát
triển
kinh
tế
ngành
thủy
sản
Việt
Nam.
Hơn
10
năm
qua,
ngành
có
nhiều
thuận
lợi
để
phát
triển
như:
Sự
liên
kết,
hỗ
trợ
của
các
cấp
ngành
về
mặt
quản
lý
ngày
càng
chặt
chẽ,
tạo
điều
kiện
tối
đa
cho
người
nuôi
phát
triển
sản
xuất.
Các
văn
bản
pháp
luật,
quy
hoạch,
chương
trình,
đề
án
đã
có
những
hiệu
quả
thiết
thực,
tạo
tiền
đề
thực
hiện
các
chiến
lược,
kế
hoạch
phát
triển
ngành
tôm
bền
vững
và
hiệu
quả.
Kinh
nghiệm
nuôi
của
các
cơ
sở
sản
xuất,
trình
độ
chuyên
môn
kỹ
thuật
đã
được
nâng
cao
thông
qua
các
hoạt
động
tập
huấn,
tuyên
truyền.
Các
vùng
quy
hoạch
nuôi
tôm
nước
lợ
đã
được
Trung
ương
và
địa
phương
quan
tâm
thông
qua
các
hoạt
động
đầu
tư
hạ
tầng,
các
vùng
phát
triển
ngày
càng
chuyên
sâu
và
đi
đúng
trọng
tâm
phát
triển
thủy
sản
của
vùng…
Theo
quy
hoạch
đến
năm
2020,
sản
lượng
tôm
đạt
747.895
tấn
Còn
nhiều
hạn
chế
Bên
cạnh
những
thuận
lợi,
theo
ông
Tùng,
nghề
nuôi
tôm
nước
lợ
ở
ĐBSCL
tuy
phát
triển
nhanh
chiều
rộng
nhưng
còn
hạn
chế
chiều
sâu.
Mặc
dù
tăng
trưởng
các
chỉ
tiêu
kinh
tế
ngành
tôm
năm
sau
luôn
cao
hơn
năm
trước
nhưng
chất
lượng
tăng
trưởng
còn
nhiều
hạn
chế
ở
nhiều
mặt.
Cơ
sở
hạ
tầng
hệ
thống
thủy
lợi,
điện,
giao
thông…
phục
vụ
cho
nuôi
tôm
nước
lợ
chưa
được
đầu
tư
thích
đáng.
Hiện
hầu
hết
các
vùng
nuôi
chưa
có
hệ
thống
cấp,
thoát
nước
riêng
biệt,
chưa
có
hệ
thống
xử
lý
nước
thải;
Hệ
thống
giao
thông
và
điện
chưa
được
đầu
tư,
chủ
yếu
tận
dụng
từ
các
công
trình
thủy
lợi
của
ngành
nông
nghiệp
dẫn
đến
nguồn
nước
không
đảm
bảo,
gây
ô
nhiễm
môi
trường,
dễ
làm
phát
sinh
và
lây
lan
dịch
bệnh.
Sản
xuất
và
cung
ứng
giống
còn
nhiều
bất
cập,
khả
năng
cung
ứng
tôm
giống
sạch
bệnh
cho
người
nuôi
ở
mức
thấp.
Quản
lý
môi
trường,
dịch
bệnh
trong
nuôi
tôm
còn
nhiều
hạn
chế.
Tình
trạng
tôm
chết
ở
nhiều
địa
phương
trong
những
năm
gần
đây
có
nhiều
nguyên
nhân
như:
Thiếu
hệ
thống
quan
trắc
cảnh
báo
môi
trường;
cơ
sở
hạ
tầng
vùng
nuôi
chưa
đảm
bảo,
nhiều
nơi
mương
cấp
nước
chung
với
nước
thải;
chất
lượng
con
giống
chưa
đảm
bảo,
không
tuân
thủ
lịch
thời
vụ...
dẫn
tới
dịch
bệnh
dễ
lây
lan.
Mặc
dù
đã
có
quy
trình
nuôi
VietGAP
nhưng
thực
tế
người
dân
lại
không
biết
mà
chỉ
biết
đến
quy
trình
nuôi
của
các
công
ty
bán
giống,
thức
ăn,
chế
phẩm
sinh
học…
Ngoài
ra,
việc
phát
triển
ngoài
vùng
quy
hoạch
đã
phá
vỡ
những
quy
hoạch
sẵn
có
của
các
địa
phương,
tạo
lên
nhiều
hệ
lụy
xấu
về
môi
trường
sinh
thái
và
các
vấn
đề
an
sinh
xã
hội.
Gấp
rút
quy
hoạch
Báo
cáo
của
VIFEP
cho
biết,
đến
năm
2020,
tổng
nhu
cầu
tôm
nuôi
toàn
cầu
khoảng
6,55
triệu
tấn,
trong
khi
đó
lượng
cung
chỉ
khoảng
4,49
triệu
tấn,
như
vậy
thiếu
hụt
khoảng
2,06
triệu
tấn.
Đây
là
cơ
hội
cho
các
nước
có
điều
kiện
tự
nhiên
nuôi
tôm
phát
triển,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
nhiều
chuyên
gia
khuyến
cáo,
để
đáp
ứng
được
các
nhu
cầu
này,
nghề
nuôi
tôm
ở
Việt
Nam
nói
chung,
ĐBSCL
nói
riêng
cần
phải
giải
quyết
được
các
khó
khăn,
thách
thức
trong
giai
đoạn
tới,
đưa
ngành
tôm
tiếp
tục
phát
triển
theo
hướng
hiệu
quả,
bền
vững,
đảm
bảo
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm,
đáp
ứng
được
nhu
cầu
tiêu
thụ
trong
nước
và
chế
biến
xuất
khẩu,
trở
thành
một
ngành
kinh
tế
quan
trọng
của
vùng
ĐBSCL
và
cả
nước.
Theo
đó,
việc
xây
dựng
“Quy
hoạch
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
đến
năm
2020,
định
hướng
đến
năm
2030”
là
cần
thiết
và
cấp
bách.
Theo
Quy
hoạch,
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
đến
năm
2020
sẽ
đạt
khoảng
608.501
ha,
sản
lượng
đạt
747.895
tấn.
Đến
năm
2030,
diện
tích
sẽ
đạt
626.727
ha;
sản
lượng
952.118
tấn.
Đồng
thời,
trong
giai
đoạn
tới,
nuôi
tôm
ở
ĐBSCL
nói
riêng
và
cả
nước
nói
chung
sẽ
được
định
hướng
đầu
tư
chiều
sâu
như:
Tập
trung
cải
tiến
kỹ
thuật
nuôi
theo
hướng
bền
vững
và
áp
dụng
các
công
nghệ
nuôi
tiên
tiến,
thân
thiện
với
môi
trường,
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm.
Việc
áp
dụng
các
quy
trình
nuôi
tốt
(Code
of
Conduct
-
CoC
hay
Good
Aquaculture
Practice
-
GAP/VietGAP)
hay
nuôi
có
trách
nhiệm
(Responsible
Aquaculture
Practice
-
RAP)
và
quản
lý
vùng
nuôi
an
toàn
sẽ
được
đẩy
mạnh
nhằm
tạo
sản
phẩm
đáp
ứng
được
với
yêu
cầu
ngày
càng
cao
của
thị
trường.
>>
“Xây
dựng
“Quy
hoạch
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
đến
năm
2020,
định
hướng
đến
năm
2030”
cần
thiết
nhưng
cũng
phải
hợp
lý,
phù
hợp
với
quy
hoạch
tổng
thể
phát
triển
thủy
sản
của
cả
nước
và
quy
hoạch
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
của
các
địa
phương
trong
vùng”,
TS
Nguyễn
Thanh
Tùng
khẳng
định.
|
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam