Nuôi
tôm
càng
xanh
toàn
đực
bằng
con
giống
nhân
tạo
theo
VietGap
góp
phần
thực
hiện
chương
trình
chuyển
đổi
cơ
cấu
cây
trồng,
vật
nuôi
theo
hướng
gia
tăng
giá
trị
sản
xuất,
mang
lại
hiệu
quả
kinh
tế
và
tính
bền
vững
trong
chăn
nuôi.
Chuẩn
bị
ao
nuôi
Ao
nuôi
tôm
càng
xanh
thường
được
xây
dựng
ở
vùng
gần
kênh,
rạch
nơi
trao
đổi
nước
dễ
dàng
bằng
thủy
triều
hay
máy
bơm.
Đặc
biệt
là
không
bị
nhiễm
bẩn
bởi
chất
thải
công
nghiệp
hay
hóa
chất
trong
nông
nghiệp.
Một
trong
những
tính
chất
quan
trọng
nhất
của
đất
đối
với
ao
nuôi
là
tính
giữ
nước
và
không
sinh
phèn.
Đất
sét,
thịt
pha
sét
đều
đảm
bảo
được
chức
năng
giữ
nước.
Ao
có
hình
chữ
nhật
là
thích
hợp
nhất,
diện
tích
nuôi
thích
hợp
từ
1000
–
5000
m2.
Mức
nước
thích
hợp
từ
1
–
1,5
m.
Bờ
ao
phải
chắc
chắn,
không
rò
rỉ,
không
hang
hốc
làm
nơi
trú
ẩn
cho
các
sinh
vật
hại
tôm.
Đối
với
nuôi
tôm
xen
trong
ruộng
lúa
cần
lưu
ý:
bờ
bao
phải
chắc
chắn,
bề
rộng
mặt
bờ
1
–
2
m;
mặt
bờ
cao
hơn
mức
nước
cao
nhất
0,5
m.
Cải
tạo
ao
nuôi: Xả
cạn
nước,
sên
vét
bùn
đáy,
chừa
lớp
bùn
dày
không
quá
10
cm.
Tiến
hành
bón
vôi
cho
ao,
dùng
vôi
sống
CaO,
hoặc
vôi
nông
nghiệp
CaCO3 bón
cho
ao
lượng
10
–
12
kg/100
m2,
sau
khi
bón
vôi
phơi
nắng
5
–
7
ngày.
Chuẩn
bị
ao:
Bao
lưới
quanh
khu
vực
ao
nuôi,
ngăn
chặn
sự
xâm
nhập
của
cá
dữ,
địch
hại
vào
trong
ao
nuôi.
Lưới
cao
từ
1
–
1,5
m
(cỡ
lưới
5
mm),
chân
lưới
chôn
sâu
xuống
chân
bờ
0,2
–
0,3
m.
Lấy
nước
vào
ao
qua
túi
lọc
nước,
hoặc
lưới
chắn
tạp
ngăn
đầu
cống
cấp.
Mức
nước
lấy
vào
ao
từ
1,2
–
1,5
m,
tiến
hành
gây
màu
nước
ao
nuôi.
Dùng
phân
chuồng
đã
ủ
hoai,
lượng
25
–
30
kg/100
m2.
Tốt
nhất
là
dùng
phân
vô
cơ
như
DAP
lượng
200
–
300
g/100
m2 ao
nuôi.
Khi
nước
ao
có
màu
xanh
nõn
chuối
thì
tiến
hành
thả
giống.
Chọn
giống
và
thả
giống
Với
những
ao
tiến
hành
cải
tạo
triệt
để,
có
thể
thả
nuôi
từ
cỡ
PL15.
Những
ao
không
thể
gạn
cạn
nước,
ao
có
thời
gian
nuôi
lệ
thuộc
vào
thời
tiết,
cần
ương
tôm
lên
cỡ
2
–
3
cm,
thả
nuôi
an
toàn
hơn.
Chọn
tôm
giống
có
cỡ
loại
đồng
đều
nhau,
hạn
chế
chênh
lệch
đàn,
gây
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
tỷ
lệ
sống.
Kích
cỡ
giống
thả
(giống
nhân
tạo)
từ
1,2
–
1,5
cm.
Đối
với
nuôi
xen
trong
ruộng
lúa
hoặc
xen
trong
vườn
có
thể
thả
giống
tự
nhiên
với
kích
cỡ
lớn
hơn.
Với
giống
tự
nhiên
cần
chọn
nguồn
giống
được
khai
thác
gần
khu
vực
nuôi.
Mật
độ
và
cách
thả
Giống
nhân
tạo
cỡ
0,5
g/con
thả
10
–
15
con/m2.
Nếu
dùng
con
giống
tự
nhiên
thả
với
mật
độ
5
–
7
con/m2.
Thời
gian
thả
tôm
nên
thực
hiện
vào
lúc
sáng
sớm,
chiều
mát.
Nếu
chuyển
giống
từ
xa
về,
khi
thả
cần
có
thời
gian
ngâm
bao
ôxy
chứa
tôm
con
xuống
ao
dự
kiến
thả
giống
trong
thời
gian
15
–
30
phút,
để
các
thông
số
hai
môi
trường
cân
bằng
nhau,
hạn
chế
sốc
cho
tôm
con.
Quản
lý
thức
ăn
và
môi
trường
Do
việc
nuôi
tôm
theo
hình
thức
bán
thâm
canh
nghĩa
là
thức
ăn
tự
nhiên
vẫn
còn
vai
trò
quan
trọng,
kết
hợp
dùng
thức
ăn
viên,
nhằm
hạ
giá
thành
sản
xuất,
giảm
chi
phí
đầu
tư,
nên
cần
chọn
thức
ăn
có
hàm
lượng
đạm
từ
25
–
30%.
Căn
cứ
vào
chất
lượng
môi
trường
ao
nuôi,
mương
dơ
hay
những
ngày
mưa
lớn
nên
giảm
lượng
thức
ăn.
Kết
hợp
sàng
ăn
và
rải
thành
nhiều
điểm
trong
ao
để
có
thể
đánh
giá
đúng
thức
ăn
tôm
sử
dụng.
Cần
theo
dõi
hàng
ngày,
duy
trì
các
yếu
tố
môi
trường
ao
nuôi
trong
ngưỡng
phù
hợp
như
lượng
ôxy
hòa
tan,
pH
nước
ao,
nhiệt
độ,
độ
mặn,
độ
đục,
độ
trong
nước
ao,
các
khí
độc,…
Cần
thực
hiện
bẻ
càng
tôm
để
kích
thích
tôm
mau
lớn
và
hạn
chế
hao
hụt
do
ăn
thịt
lẫn
nhau
vào
thời
điểm
lột
xác.
Cần
bẻ
càng
ở
đúng
khớp
gần
cơ
thể
và
hạn
chế
thương
tổn
nhất
bằng
cách
giữ
chặt
2
càng
và
để
tôm
búng
tự
nhiên
sẽ
tự
long
càng
ra.
Khoảng
3
–
4
tháng
sau
thì
tôm
sẽ
mọc
lại
càng.
Sau
khi
tiến
hành
bẻ
càng,
cần
chuyển
tôm
sang
nuôi
thương
phẩm.
Tiến
hành
ghi
chép,
theo
dõi
các
chi
phí
phát
sinh,
tình
hình
sức
khỏe
tôm
nuôi
theo
từng
giai
đoạn.
Đó
sẽ
là
cơ
sở
để
đánh
giá,
rút
kinh
nghiệm
vào
cuối
vụ
nuôi
và
định
hướng
cho
vụ
nuôi
tiếp
theo.
Nhằm
giúp
nuôi
tôm
theo
một
quy
trình
đồng
nhất,
sản
phẩm
đồng
đều
về
trọng
lượng,
năng
suất
cao,
hình
thức
đẹp;
giảm
giá
thành,
tăng
lợi
nhuận
thông
qua
việc
ghi
chép
chi
phí
sản
xuất
một
cách
rõ
ràng,
chi
tiết;
đảm
bảo
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm,
đủ
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu.