Các
thành
phần
thức
ăn
nguồn
gốc
thực
vật,
giúp
thúc
đẩy
lượng
ăn
vào
và
sự
tăng
trưởng,
trong
khi
đó
bột
nhuyễn
thể
krill,
kích
thích
tính
thèm
ăn
của
cá
hồi
Đại
Tây
Dương.
Trong
một
nghiên
cứu
mới
đây
trên
tạp
chí
Fisher,
các
nhà
khoa
học
từ
Florida,
California,
Montana
và
South
Carolina;
cùng
một
số
Trung
tâm
công
nghệ
thủy
sản
của
Mỹ
và
Chile,
đã
phân
tích
ảnh
hưởng
của
bột
nhuyễn
thể
krill,
đối
với
sự
phát
triển
của
cá
hồi
Đại
Tây
Dương,
trong
khẩu
phần
ăn
gốc
thực
vật
và
gốc
động
vật
(protein
phụ
phẩm
gia
cầm),
không
có
bột
cá
và
dầu
cá.
Nghiên
cứu
này
xác
định
việc
bổ
sung
krill
vào
các
chế
độ
ăn
chứa
protein
gia
cầm
hay
protein
thực
vật,
có
tác
dụng
tích
cực
tới
lượng
ăn
vào,
hoặc
kích
thích
sự
tăng
trưởng
của
cá
hồi
hay
không.
Ngoài
ra,
các
chuyên
gia
cũng
nỗ
lực
tìm
kiếm
phương
pháp,
đánh
giá
khả
năng
thay
thế
bột
nhuyễn
thể
krill
của
các
nguyên
liệu
mới,
trong
chế
độ
ăn
gốc
thực
vật.
Nhóm
chuyên
gia
tiến
hành
nghiên
cứu
tại
Trung
tâm
thử
nghiệm
Acuicola
(Vitapro,
thuộc
Chile),
nhằm
đánh
giá
ảnh
hưởng
của
bột
nhuyễn
thể
krill,
ở
tỷ
lệ
0%;
2,5%
và
5%
trong
thức
ăn
gốc
động
vật
và
thực
vật
không
chứa
bột
cá
và
dầu
cá,
đối
với
sự
phát
triển
của
cá
hồi
Đại
Tây
Dương.
Kết
quả
cho
thấy,
từ
khi
bắt
đầu
thử
nghiệm:
Trọng
lượng,
chiều
dài
và
hệ
số
điều
kiện
sống
(K),
không
có
sự
khác
biệt
giữa
các
nhóm
cá.
Ngoài
ra,
suốt
thời
gian
nghiên
cứu,
các
nghiệm
thức
cũng
không
gây
ra
bất
cứ
tác
động
tiêu
cực
nào
đến
tỷ
lệ
sống
của
cá.
Thay
thế
dầu
cá
bằng
dầu
tảo
hoặc
dầu
thực
vật,
đồng
thời
thay
đổi
hồ
sơ
dinh
dưỡng
của
từng
axit
béo,
không
làm
ảnh
hưởng
đến
tổng
lượng
axit
béo
bão
hòa,
không
bão
hòa
đơn,
hoặc
không
bão
hòa
đa
trong
chế
độ
ăn.
Ngược
lại
với
thức
ăn
protein
động
vật,
thức
ăn
chứa
protein
thực
vật
bổ
sung
bột
nhuyễn
thể
krill,
sẽ
có
những
lợi
ích
nhất
định.
Tỷ
lệ
bổ
sung
krill
tăng,
kéo
theo
tăng
trọng
cải
thiện,
tốc
độ
tăng
trưởng
tương
đương
nhóm
ăn
bột
cá
và
dầu
cá.
Kết
quả
cho
thấy,
cá
hồi
Đại
Tây
Dương
được
nuôi
bằng
chế
độ
ăn
chủ
yếu
thực
vật,
đã
tăng
trưởng
gần
220%
suốt
đợt
thử
nghiệm
với
tỷ
lệ
chết
0%.
Ngoài
ra,
các
giá
trị
về
tỷ
lệ
cho
ăn
hàng
ngày
(SFR),
giá
trị
protein
sản
xuất
(PPV),
hiệu
quả
sử
dụng
protein
(PER),
đặc
điểm
hình
thái,
và
thành
phần
không
thay
đổi,
so
với
nhóm
cá
đối
chứng
ăn
chế
độ
bột
cá
và
dầu
cá.
Tuy
nhiên,
tốc
độ
tăng
trưởng
của
cá
chậm
hơn,
so
các
nhóm
thử
nghiệm
khác
từ
ngày
thứ
45
trở
đi.
Với
khẩu
phần
ăn
chứa
protein
thực
vật,
bổ
sung
krill
không
mang
lại
lợi
ích
dinh
dưỡng
rõ
ràng,
do
chứa
hàm
lượng
protein
tương
tự
thức
ăn
đối
chứng
(bột
cá,
dầu
cá),
nhưng
khác
nhau
về
hàm
lượng
EAA
và
lipid.
Chế
độ
ăn
protein
thực
vật
+
5%
krill
(P3),
đã
mang
lại
kết
quả
giống
hệt
nhóm
đối
chứng
về
thông
số
tăng
trưởng,
nguyên
nhân
do
krill
đã
kích
thích
lượng
ăn
vào
và
tăng
cảm
giác
ngon
miệng
cho
vật
nuôi.
Tuy
nhiên,
do
không
có
sự
khác
biệt
về
thành
phần
toàn
bộ
cơ
thể,
hoặc
chỉ
số
nội
tạng
giữa
hai
nhóm,
nên
không
thể
bỏ
qua
tác
dụng
tiết
kiệm
protein.
Cũng
có
thể
do
bột
krill
cung
cấp
thêm
một
số
chất
dinh
dưỡng
vào
thức
ăn,
bao
gồm
astaxanthin
và
nucleotide
–
những
chất
có
lợi
cho
sức
khỏe
và
tăng
trưởng
của
cá
hồi.
Hỗn
hợp
protein
mới
(krill
+
thực
vật),
giống
chất
lượng
dinh
dưỡng
của
bột
cá
hơn,
đồng
thời
làm
giảm
khả
năng
thiếu
hụt
chất
dinh
dưỡng.
Tiến
sĩ
Rick
Barrow,
trưởng
nhóm
nghiên
cứu
cho
biết,
cuộc
thi
“Thức
ăn
không
bột
cá
(F3)”
vẫn
đang
tiếp
diễn.
Các
kết
quả
sẽ
được
công
bố
vào
cuối
năm
2024.
Nhiều
chuyên
gia
dinh
dưỡng
cũng
kỳ
vọng
các
doanh
nghiệp
sẽ
tìm
ra
chất
khả
thi,
thay
thế
krill
trong
thức
ăn
thủy
sản.
Theo
Rick,
lợi
ích
làm
tăng
lượng
thức
ăn
ăn
vào
của
krill
chỉ
tạm
thời.
Hơn
nữa,
krill
lột
vỏ
có
thể
làm
giảm
đáng
kể
độ
ổn
định
của
thức
ăn
viên,
do
hàm
lượng
protein
hòa
tan
trong
bột
krill
cao
hơn
so
với
bột
cá.
Ở
chế
độ
ăn
protein
(bột
gia
cầm),
bổ
sung
krill
ở
mức
2,5%
–
5%
không
phát
huy
tác
dụng
rõ
ràng.
Tuy
nhiên,
ở
khẩu
phần
ăn
chứa
protein
thực
vật,
krill
hoạt
động
như
một
chất
gây
ngon
miệng,
làm
tăng
lượng
ăn
vào
và
tăng
trưởng
của
cá
hồi.
Theo
International
Feed