Đó
là
quan
điểm
chung
được
các
nhà
khoa
học,
nhà
quản
lý,
các
chuyên
gia
trong
và
ngoài
nước
tại
hội
thảo
"Hội
tụ
để
phát
triển
ngành
tôm"
vừa
diễn
ra
tại
Bạc
Liêu.
Thứ
trưởng
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
Vũ
Văn
Tám
cho
rằng:
Khả
năng
các
tỉnh
ĐBSCL
nâng
cao
năng
suất
tôm
nuôi
ở
các
mô
hình
quảng
canh,
quảng
canh
cải
tiến,
tôm
sinh
thái,
tôm
rừng
còn
rất
lớn.
Bởi,
theo
phân
tích
của
ông
Vũ
Văn
Tám,
hiện
tại,
năng
suất
của
các
mô
hình
này
còn
thấp.
Nếu
áp
dụng
khoa
học
kỹ
thuật
và
tăng
cường
kiểm
soát
ao
nuôi
thì
khả
năng
nâng
năng
suất
lên
1,2
tấn/ha
là
điều
rất
dễ
dàng.
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
cũng
đã
chính
thức
kiến
nghị
với
Chính
phủ
công
nhận
tôm
là
sản
phẩm
quốc
gia.
Và
nếu
được
Chính
phủ
đồng
ý,
ngành
tôm
Việt
Nam
sẽ
được
đầu
tư
mạnh
hơn.
TS.
Như
Văn
Cẩn,
Vụ
trưởng
Vụ
Nuôi
trồng
thủy
sản,
Tổng
cục
Thủy
sản
Việt
Nam,
cho
rằng:
Hơn
30
năm
phát
triển,
ngành
tôm
Việt
Nam
đã
chứng
tỏ
được
thế
mạnh
cũng
như
giá
trị
kinh
tế.
Cả
nước
hiện
có
28
tỉnh
nuôi
tôm
nước
lợ
với
diện
tích
trên
680.000ha,
tổng
sản
lượng
gần
600.000
tấn,
đạt
kim
ngạch
xuất
khẩu
trên
3
tỉ
USD.
Trong
đó
tập
trung
chủ
yếu
ở
các
tỉnh
ĐBSCL.
Con
tôm
Việt
Nam
(chủ
yếu
là
tôm
sú
và
tôm
thẻ
chân
trắng)
đang
đứng
trước
cơ
hội
và
thách
thức
lớn
trước
biến
đổi
khí
hậu,
môi
trường
nuôi
và
cạnh
tranh
của
thị
trường
bên
ngoài.
Vì
vậy,
dù
đạt
kim
ngạch
xuất
khẩu
lớn,
nhưng
giá
trị
của
ngành
tôm
chưa
tương
xứng
với
tiềm
năng.
Theo
TS.
Cherdsak
Virapat,
Tổng
Giám
đốc
Mạng
lưới
trung
tâm
nuôi
trồng
thủy
sản
Châu
Á,
Thái
Bình
Dương
(NACA),
hạ
tầng
yếu
kém,
chi
phí
sản
xuất
cao,
hàng
rào
thuế
quan,
tình
trạng
biến
đổi
khí
hậu,
điều
kiện
kinh
tế
-
xã
hội
vùng
nuôi…
đang
là
những
khó
khăn,
thách
thức
lớn
đối
với
ngành
tôm
Việt
Nam.
Về
thị
trường
tôm
trên
thế
giới,
TS.
Cherdsak
Virapat
cho
biết:
Tình
hình
dịch
bệnh
trên
tôm
ở
Thái
Lan
đã
khả
quan
hơn
và
NACA
đang
hỗ
trợ
những
hộ
nuôi
nhỏ
ở
Thái
Lan
quản
lý
tốt
bệnh
vi
bào
tử
trùng.
Thời
gian
gần
đây,
khu
vực
miền
Nam
Thái
Lan
có
mưa
nhiều,
nên
nhiều
khả
năng
buộc
phải
thu
hoạch
tôm
nuôi
sớm
để
tránh
dịch
bệnh
bùng
phát,
nên
dự
báo
sẽ
giảm
diện
tích
trong
thời
gian
tới.
Còn
quốc
gia
có
nền
nuôi
tôm
lớn
là
Ấn
Độ,
trong
năm
2015
cũng
bị
ảnh
hưởng
khá
lớn
do
dịch
bệnh
đốm
trắng,
bệnh
phân
trắng,
ký
sinh
trùng,
vi
bào
tử
trùng,
nên
năm
2016,
sản
lượng
ước
giảm
khoảng
25%.
"Nhìn
chung,
các
nước
nuôi
tôm
châu
Á
đều
đang
đối
phó
với
tình
hình
dịch
bệnh
và
thời
tiết
bất
thường,
nên
sản
lượng
dự
báo
sẽ
không
tăng.
Riêng
các
nước
châu
Mỹ
dù
đi
theo
khuynh
hướng
nuôi
mật
độ
thưa,
thu
tôm
cỡ
lớn,
nhưng
một
số
vùng
vẫn
đang
chật
vật
với
dịch
bệnh
và
ảnh
hưởng
động
đất,
nên
dự
báo
sản
lượng
khoảng
2
-
3
năm
tới
mới
có
thể
tăng"
-
TS.
Cherdsak
Virapat
nhận
định.
Bức
xúc
trước
thực
trạng
ngành
tôm,
ông
Lê
Văn
Quang,
Phó
Chủ
tịch
VASEP,
Chủ
tịch
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú,
thẳng
thắn
chỉ
ra
những
khâu
khiến
ngành
tôm
Việt
Nam
bất
ổn,
giá
thành
cao
và
tính
cạnh
tranh
kém.
Đó
là:
quy
hoạch
vùng
nuôi
rất
kém,
rất
yếu
và
có
thể
nói
là
chưa
có
quy
hoạch
các
vùng
nuôi
mà
chỉ
mang
tính
tự
phát
của
các
hộ
nuôi
tôm,
nên
đến
nay
cả
vùng
nuôi
ở
ĐBSCL
vẫn
chưa
có
được
cánh
"đồng
mẫu
lớn"
cho
tôm,
gây
khó
khăn
cho
công
tác
quản
lý
môi
trường
và
dịch
bệnh.
Không
chỉ
có
quy
hoạch
yếu
kém,
công
tác
giống
và
quy
trình
công
nghệ
nuôi
cũng
còn
không
ít
bất
cập.
Theo
ông
Lê
Văn
Quang,
đến
nay,
Việt
Nam
vẫn
chưa
có
nơi
nghiên
cứu,
gia
hóa,
chọn
giống
tôm
bố
mẹ;
chưa
tiếp
cận
tôm
giống
bố
mẹ
kháng
bệnh
và
các
trại
giống
còn
sử
dụng
kháng
sinh,
khiến
tôm
nuôi
chậm
lớn.
Về
quy
trình
công
nghệ
nuôi,
ông
Lê
Văn
Quang
chỉ
rõ:
"Lâu
nay
chúng
ta
nói
nhiều
đến
quy
trình
này,
công
nghệ
nọ,
nhưng
thật
ra
chúng
ta
vẫn
chưa
có
được
một
quy
trình,
công
nghệ
nuôi
tôm
nào
tốt,
nên
tỷ
lệ
nuôi
thành
công
rất
thấp,
giá
thành
lại
cao
so
với
các
nước.
Trong
khi
đó,
quốc
gia
Ecuador
đã
tiến
đến
mô
hình
sản
xuất
con
giống
kháng
bệnh,
nuôi
với
mật
độ
thưa,
thu
hoạch
tôm
sạch
cỡ
lớn
và
rất
thành
công".
Ông
Lê
Văn
Quang
thắc
mắc:
"Tại
sao
chúng
ta
không
áp
dụng
tiêu
chuẩn
BAP
hay
ASC
để
đồng
bộ
với
quy
định
của
các
nước
nhập
khẩu,
mà
lại
áp
dụng
VietGAP
cho
tốn
kém,
nhưng
lại
chẳng
có
nước
nào
công
nhận".
Đối
với
hệ
thống
thủy
lợi,
theo
ông
Lê
Văn
Quang
vừa
yếu
lại
vừa
thiếu
đồng
bộ,
khiến
cả
vùng
nuôi
không
có
nước
ngọt
để
bổ
sung
khi
cần
thiết,
còn
nguồn
nước
sạch
phục
vụ
khâu
thu
hoạch
tôm
thì
hầu
như
không
có.
"Không
có
nước
sạch
để
rửa
tôm
khi
thu
hoạch,
còn
nước
đá
thì
không
đạt
tiêu
chuẩn
vệ
sinh,
nên
tôm
sau
thu
hoạch
thường
nhiễm
vi
sinh
tổng
số
cao,
nhà
máy
phải
tốn
nhiều
chi
phí
để
xử
lý,
làm
tăng
chi
phí
sản
xuất
và
giá
thành
tôm
khi
xuất
khẩu,
giảm
sức
cạnh
tranh
của
con
tôm
Việt
Nam
trên
thị
trường
thế
giới"
–
ông
Lê
Văn
Quang
nói.
Nhiều
ý
kiến
cũng
cho
rằng,
thức
ăn
tôm
Việt
Nam
gần
như
là
độc
quyền
của
các
công
ty
nước
ngoài,
nên
thị
trường
thức
ăn
luôn
bị
thao
túng,
đẩy
giá
lên
cao,
làm
tăng
chi
phí
cho
người
nuôi.
Đó
là
chưa
kể
đến
hàng
loạt
các
yếu
tố
khác
như:
dịch
vụ
cung
ứng
dụng
cụ,
vật
tư,
thuốc,
chế
phẩm
vi
sinh
và
thức
ăn;
kiểm
tra
giám
sát
quy
trình
nuôi,
thu
hoạch,
muối
ướp,
bảo
quản
và
vận
chuyển,
chế
biến
xuất
khẩu…
tất
cả
các
khâu
đều
có
vấn
đề.
"Tôi
rất
mong
các
bộ,
ngành,
địa
phương
có
vùng
tôm
hãy
quan
tâm
chỉ
đạo
giải
quyết
ngay
những
vấn
đề
tồn
tại
để
cứu
lấy
ngành
tôm
Việt
Nam.
Điều
này
đồng
nghĩa
với
việc
cứu
hàng
trăm
nhà
máy
chế
biến,
cùng
hàng
triệu
người
lao
động
cũng
như
người
nuôi
tôm
trên
cả
nước"
-
ông
Lê
Văn
Quang
nói.
Báo
Cần
Thơ