Tại
Việt
Nam,
những
năm
gần
đây,
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn
được
ghi
nhận
ở
nhiều
ao
nuôi
tôm
thâm
canh,
bán
thâm
canh,
kể
cả
quảng
canh
cải
tiến.
Thiệt
hại
lớn
Từ
năm
2001
-
2002,
tại
Thái
Lan
đã
thường
xuyên
xảy
ra
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn
mà
các
nhà
khoa
học
sau
này
gọi
là
triệu
chứng
tôm
chậm
lớn.
Kết
quả
phân
tích
từ
32
ao
nuôi
tôm
có
hiện
tượng
chậm
lớn
cho
thấy,
trong
cùng
thời
gian,
cùng
quy
trình
nuôi,
tôm
bình
thường
trọng
lượng
khoảng
24
gam/con
nhưng
tôm
chậm
lớn
chỉ
tối
đa
16,8
gam/con;
theo
đó
ngành
tôm
Thái
Lan
tổn
thất
khoảng
13.000
tỷ
bath
(gần
300
tỷ
USD).
Triệu
chứng
này
đồng
thời
được
ghi
nhận
tại
Trung
Quốc,
Ấn
Độ...
Ông
Nguyễn
Tiến
Dũng,
xã
Phước
Trung,
huyện
Gò
Công
Đông
(Tiền
Giang)
cho
biết,
năm
2014,
gia
đình
có
2
ao
nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng
(TTCT)
thả
giống
mật
độ
100
con/m2.
30
ngày
đầu,
tôm
vẫn
ăn
và
phát
triển
bình
thường
nhưng
sau
đó
ăn
giảm,
tôm
bị
ốp
thân
nên
đến
70
ngày
tuổi
mà
chỉ
đạt
trọng
lượng
200
con/kg.
Sau
4
tháng
nuôi,
năng
suất
tôm
chỉ
đạt
gần
5
tấn/ha,
cỡ
tôm
110
con/kg,
trong
khi
các
ao
tôm
phát
triển
bình
thường
chỉ
cần
90
ngày
đã
đạt
cỡ
40
-
60
con/kg,
sản
lượng
hơn
10
tấn/ha.

Tôm
chậm
lớn
gây
thiệt
hại
cho
người
nuôi
-
Ảnh:
Máy
Cày
Đâu
là
nguyên
nhân?
Trong
những
tác
nhân
gây
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn,
yếu
tố
được
nhận
định
cần
phải
chú
trọng
kiểm
soát
đầu
tiên
là
chất
lượng
tôm
giống.
Để
tránh
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn,
cần
phải
kiểm
dịch
con
giống
trước
khi
mua
về
thả
nuôi,
nhằm
tránh
tình
trạng
con
giống
bị
nhiễm
bệnh
còi
do
MBV
(Monodon
Baculovirus),
HPV
(Hepatopancreatic
parvovirus),
bệnh
vi
bào
tử
trùng
Enterocytozoon
hepatopenaei
(EHP)
hoặc
Hội
chứng
chậm
lớn
trên
tôm
sú
LSNV
(Laem
singh
virus).
Bệnh
vi
bào
tử
trùng
EHP
được
phát
hiện
ở
Thái
Lan
từ
năm
2006
nhưng
chưa
được
quan
tâm
nhiều.
Tại
nhiều
nước
nuôi
tôm
lớn
đang
có
mầm
bệnh
EHP.
Triệu
chứng
EHP
trên
TTCT
không
rõ
ràng.
Khi
tôm
giống
bị
nhiễm
EHP
thả
nuôi
trong
tháng
đầu
tiên
vẫn
phát
triển
bình
thường,
nhưng
sau
khi
đạt
trọng
lượng
3
-
4
gram/con,
lượng
sinh
khối
tôm
trong
ao
tăng
dần
thì
tôm
cũng
chậm
lớn
dần
rồi
có
thể
dừng
lớn
hẳn.
Tôm
nuôi
90
-
100
ngày
có
thể
chỉ
đạt
4
-
5
gram/con
(200
-
250
con/kg).
Bệnh
LSNV
xuất
hiện
tại
Ấn
Độ,
Thái
Lan
từ
năm
2001
-
2002,
có
khả
năng
lây
lan
nhanh,
rộng
và
gây
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn. Tôm
sú
bị
chậm
lớn
do
LSNV,
nếu
không
phân
biệt
kỹ,
có
thể
nhầm
với
tôm
bị
nhiễm
còi
do
nhiễm
HPV
và
MBV.
Nhưng
tôm
nhiễm
LSNV
có
màu
sậm
bất
thường,
tăng
trưởng
bình
quân
chỉ
dưới
0,1
g/ngày,
khớp
bụng
có
dạng
đốt
tre,
râu
dễ
gãy.
Điều
này
có
thể
giải
thích
cho
những
trường
hợp
tôm
nuôi
có
hiện
tượng
chậm
lớn
nhưng
khi
xét
nghiệm
tôm
bệnh
lại
dương
tính
với
MBV.
Sức
đề
kháng
của
tôm
giảm
là
nguyên
nhân
tiếp
theo
làm
cho
tôm
nuôi
chậm
lớn,
dù
ao
tôm
được
quản
lý
đúng
kỹ
thuật.
Nguyên
nhân
có
thể
do
cơ
sở
sản
xuất
sử
dụng
tôm
giống
bố
mẹ
không
đạt
chất
lượng,
lạm
dụng
quá
mức
sức
sinh
sản
tôm
mẹ.
Bên
cạnh
đó,
việc
lạm
dụng
chất
kháng
sinh
liên
tục
ở
liều
cao
trong
sản
xuất,
ương
gièo
để
điều
trị
bệnh
nhiễm
khuẩn
của
tôm
giống
đã
làm
giảm
sức
kháng
bệnh
của
tôm
khi
đưa
vào
nuôi,
giảm
khả
năng
chuyển
hóa
thức
ăn,
dẫn
tới
tình
trạng
tôm
chậm
lớn,
còi
cọc,
làm
tăng
hệ
số
sử
dụng
thức
ăn,
tăng
chi
phí.
Do
đó,
việc
chọn
giống
tại
nơi
sản
xuất
có
uy
tín,
kiểm
soát
chất
lượng
giống
trước
khi
nuôi
là
quan
trọng.
Trong
quá
trình
nuôi,
tôm
bị
các
bệnh
do
vi
khuẩn
Vibrio,
vi
khuẩn
dạng
sợi,
bệnh
đóng
rong,
bệnh
phân
trắng...
cũng
làm
tôm
nuôi
bị
chết
rải
rác
hay
chậm
lớn.
Mầm
bệnh
từ
nguồn
nước,
tôm
giống,
thức
ăn,
từ
đáy
ao,
nếu
tẩy
dọn
chưa
tốt.
Bệnh
thường
gặp
ở
ao
thả
nuôi
mật
độ
dày,
hàm
lượng
chất
hữu
cơ
cao,
việc
kiểm
soát
các
yếu
tố
thủy
lý
hóa
môi
trường
ao
nuôi
không
tốt,
khí
độc
nhiều.
Để
phòng
ngừa,
cần
chuẩn
bị
ao
nuôi
đúng
quy
trình
kỹ
thuật
ngay
từ
đầu,
không
thả
nuôi
mật
độ
quá
cao,
không
dùng
thức
ăn
bị
mốc.
Trong
quá
trình
nuôi
cần
quản
lý
chặt
các
yếu
tố
môi
trường,
định
kỳ
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
làm
sạch
môi
trường.
Thay
nước
định
kỳ
và
dùng
hóa
chất
diệt
khuẩn,
nhất
là
thời
điểm
nắng
nóng
hay
mưa
kéo
dài.
Tăng
sức
đề
kháng
cho
tôm
bằng
quản
lý
môi
trường
tốt
và
bổ
sung
vitamin
C,
A,
E,
Beta-Glucan.
Ngoài
ra,
việc
sử
dụng
thức
ăn
kém
chất
lượng,
bảo
quản
không
tốt
hay
tôm
thiếu
thức
ăn
làm
cho
tôm
không
hấp
thu
đủ
chất
dinh
dưỡng
để
tạo
cơ
thịt
lắp
đầy
vỏ,
hay
môi
trường
nước
ao
xấu
làm
phát
sinh
các
khí
độc...,
cũng
khiến
tôm
giảm
ăn,
bỏ
ăn
hoặc
làm
cho
tôm
nuôi
bị
ốp,
chậm
lớn.
Để
hạn
chế
tình
trạng
này,
cần
chọn
loại
thức
ăn
tốt,
bảo
quản
đúng
kỹ
thuật,
tính
toán
lại
lượng
thức
ăn
cho
phù
hợp
và
bổ
sung
premix
vào
thức
ăn.
Đồng
thời
cần
kiểm
tra
lại
các
yếu
tố
thủy
lý
hóa
môi
trường
ao
nuôi
và
có
biện
pháp
điều
chỉnh
các
thông
số
môi
trường
về
mức
phù
hợp.
Thủy
sản
Việt
nam