Ngày
15/11/2016,
Tổng
cục
Thủy
sản,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn
phối
hợp
với
Hiệp
hội
Chế
biến
và
Xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP)
và
Chương
trình
Quản
lý
Tổng
hợp
vùng
ven
biển
(ICMP-GIZ)
đã
phối
hợp
tổ
chức
Đối
thoại
bàn
tròn
trong
khuôn
khổ
chương
trình
Hợp
tác
Công-Tư
ngành
thủy
sản
(PPP)
với
chủ
đề
“Làm
thế
nào
để
nâng
cao
lợi
thế
cạnh
tranh
cho
ngành
tôm
Việt
Nam?”
Nhu
cầu
tôm
để
cung
ứng
cho
người
tiêu
dùng
toàn
cầu
ngày
càng
tăng
trong
khi
khả
năng
cạnh
tranh
của
tôm
Việt
Nam
đang
giảm.
Việc
tìm
ra
giải
pháp
để
nâng
cao
khả
năng
cạnh
tranh
cho
con
tôm
Việt
trở
lên
cấp
thiết
hơn
bao
giờ
hết.
Hội
nghị
bàn
tròn
được
tổ
chức
nhằm
chia
sẻ
những
khó
khăn
của
ngành
tôm
từ
khâu
nuôi
trồng
đến
chế
biến
XK
và
tìm
giải
pháp
tháo
gỡ
khó
khăn
vướng
mắc
để
thúc
đẩy
khả
năng
cạnh
tranh
của
con
tôm.

Hội
nghị
bàn
tròn
có
sự
tham
gia
đông
đảo
của
các
đại
biểu
đến
từ
Bộ
NN&PTNT,
Bộ
Công
Thương,
TCTS,
các
vụ,
các
Sở
NN&PTNT,
chi
cục
thủy
sản
các
địa
phương,
các
viện
nghiên
cứu,
các
hiệp
hội,
các
doanh
nghiệp
nuôi,
chế
biến
XK
tôm,
sản
xuất
giống,
thức
ăn
và
dịch
vụ,
các
công
ty
mua
quốc
tế,
v.v…Tại
hội
nghị
các
đại
biểu
đã
thảo
luận
sôi
nổi
về
những
bất
cập
còn
tồn
tại
trong
sản
xuất
tôm
từ
đó
đưa
ra
ý
kiến
về
nâng
cao
lợi
thế
của
ngành
tôm
Việt
Nam
trên
thị
trường
quốc
tế,
những
giải
pháp
giảm
chi
phí
sản
xuất,
liên
kết
sản
xuất
và
tiêu
thụ
sản
phẩm.
Hội
nghị
có
4
phiên
với
4
chuyên
đề
chính
tập
trung
bàn
về
yếu
tố
đầu
vào
của
ngành
sản
xuất
tôm
như:
Giống,
thức
ăn,
thuốc
chế
phẩm
sinh
học;
cách
thức
tổ
chức
sản
xuất
liên
kết
ngành
tôm;
chính
sách
quản
lý
đối
với
chuỗi
cung
ứng
và
những
hạn
chế,
đề
xuất
để
nâng
cao
hiệu
quả
chế
biến
XK
tôm…
Cần
có
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
thống
nhất
cho
tôm
giống,
thức
ăn,
CPSH
Phiên
họp
đầu
tiên
với
bài
phát
biểu
đề
dẫn
của
Ts.
Phạm
Anh
Tuấn
với
chủ
đề
các
yếu
tố
đầu
vào
của
ngành
sản
xuất
tôm.
Theo
ông
Tuấn,
tôm
giống
ở
Việt
Nam
hiện
đủ
về
số
lượng
nhưng
chất
lượng
còn
thiếu
và
không
ổn
định.
Tôm
bố
mẹ
chủ
yếu
dựa
vào
NK
dẫn
tới
chất
lượng
khó
kiểm
soát
và
giá
thành
sản
xuất
tôm
cao
trong
khi
không
chủ
động
được
nguồn
tôm
giống.
Sản
xuất
tôm
giống
tại
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
còn
rất
hạn
chế.
Nhiều
cơ
sở
sản
xuất
giống
không
đảm
bảo
an
toàn
sinh
học.
Về
thức
ăn,
thuốc
và
chế
phẩm
sinh
học,
thực
tế
ở
Việt
Nam
đang
lưu
hành
rất
nhiều
chủng
loại.
Theo
Ts.
Như
Văn
Cẩn
-
Vụ
trưởng
Vụ
nuôi
trồng
thủy
sản,
hiện
nước
ta
có
2.800
loại
thức
ăn,
3.800
loại
thức
ăn
bổ
sung
và
2.800
chất
xử
lý
môi
trường.
Công
tác
quản
lý
chất
lượng
gặp
nhiều
khó
khăn
và
không
thể
kiểm
soát
tận
gốc
các
cơ
sở
sản
xuất
này.
Từ
đó,
mỗi
năm
DN
phải
mất
nhiều
chi
phí
để
kiểm
kháng
sinh.
Theo
ông
Võ
Văn
Phục
-
Giám
đốc
công
ty
VINACLEANFOOD,
với
7.000
tấn
sản
phẩm
sản
xuất
ra,
công
ty
phải
mất
700
nghìn
USD
để
kiểm
kháng
sinh
trong
khi
Thái
Lan
chi
phí
kiểm
tra
kháng
sinh
chưa
đến
1/3
của
Việt
Nam.
Cộng
với
chi
phí
lấy
mẫu
kiểm
tra
ở
các
thị
trường
NK,
thì
chi
phí
của
DN
bị
đội
lên
nhiều.
Do
vậy,
để
quản
lý
tốt
ngay
từ
khâu
đầu
vào,
tất
cả
các
đại
biểu
trong
nhóm
thảo
luận
đều
đồng
thuận
quan
điểm
Việt
Nam
cần
phải
có
một
bộ
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
thống
nhất
cho
quản
lý
chất
lượng
giống,
thức
ăn,
thuốc
và
các
yếu
tố
đầu
vào.
Về
vấn
đề
này,
bà
Phan
Thị
Thu
Oanh,
PGĐ
Sở
NNPTNT
Bạc
Liêu
kiến
nghị,
nên
có
khu
quy
hoạch
sản
xuất
giống
tập
trung
tại
vùng
nuôi
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long,
nhà
nước
đầu
tư
hạ
tầng
và
kêu
gọi
DN
đầu
tư
thêm.
Có
sự
liên
kết
giữa
viện
nghiên
cứu
và
DN
để
ứng
dụng
những
nghiên
cứu.
DN
nên
chủ
động
trong
việc
sản
xuất
giống,
từ
khâu
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng
đến
chất
lượng
con
giống
cung
cấp
ra
thị
trường.
Thức
ăn
nuôi
tôm
chiếm
phần
lớn
trong
giá
thành
nhưng
chủ
yếu
công
ty
nước
ngoài
sản
xuất.
Qua
nhiều
đại
lý
mới
đến
tay
người
nuôi
nên
giá
cao.
Người
dân
phải
liên
kết
với
nhau,
cơ
quan
nhà
nước
phải
có
giải
pháp
và
chính
sách
gắn
kết
chặt
chẽ.
Đại
diện
DN
sản
xuất
thức
ăn
nuôi
tôm
C.P.
Vietnam
Corp,
Phó
Tổng
Giám
đốc
Nguyễn
Vĩnh
Phú
cho
biết,
để
hạ
giá
thành
sản
phẩm,
người
nuôi
cần
phải
áp
dụng
mô
hình
nuôi
tôm
3
sạch
(giống
tôm
sạch,
nước
sạch
và
đáy
ao
sạch).
Hiện
mới
chỉ
có
0,2%
(tương
đương
200
hộ
nuôi)
ở
Việt
Nam
triển
khai
được
mô
hình
này.
Phấn
đấu
đến
2017,
có
4%
số
hộ
nuôi
ở
Việt
Nam
thực
hiện
mô
hình
này.
Hiện
tỷ
lệ
nuôi
tôm
theo
mô
hình
này
ở
Thái
Lan
đã
lên
tới
20%
nên
sản
lượng
tôm
nước
này
có
thể
tăng
30%
trong
năm
nay.
Ông
Quảng
Trọng
Thao,
Phó
Giám
đốc
Sở
NN
&
PTNT
tỉnh
Kiên
Giang
có
ý
kiến
nên
tích
hợp
những
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
để
người
dân
dễ
thực
hiện
và
nhà
nước
dễ
quản
lý,
loại
bớt
đơn
vị
nhỏ
lẻ
và
giải
quyết
sinh
kế
cho
họ.
Cơ
quan
quản
lý
tăng
cường
hậu
kiểm
và
có
biện
pháp
xử
lý
nghiêm
các
trường
hợp
vi
phạm
như
công
bố
trên
phương
tiện
thông
tin
đại
chúng,
rút
giấy
phép
hoạt
động.
Có
quản
lý
tốt
được
ngay
từ
khâu
đầu
vào
thì
giá
thành
sản
xuất
tôm
mới
giảm
và
vị
thế
cạnh
tranh
của
tôm
Việt
Nam
mới
có
thể
tăng.
Trong
phiên
họp
thứ
hai
với
bài
phát
biểu
đề
dẫn
của
ông
Võ
Văn
Phục
về
cách
thức
tổ
chức
sản
xuất
liên
kết
ngành
tôm.
Ông
Phục
kiến
nghị,
cần
có
chế
tài
đối
với
một
số
thương
lái
Trung
Quốc
cạnh
tranh
không
lành
mạnh.
Họ
thường
gây
đảo
lộn
thị
trường
vào
những
thời
điểm
khan
hiếm
nguyên
liệu,
tác
động
không
tốt
tới
người
nuôi
và
nhà
máy
chế
biến.
Bên
cạnh
đó,
nên
có
biện
pháp
phát
huy
thế
mạnh
của
Việt
Nam
về
tôm
sú
quảng
canh
và
tôm
rừng
mà
các
nước
khác
không
thể
có.
Về
vấn
đề
này,
ông
Lê
Văn
Quang,
TGĐ
Công
ty
Cổ
phần
Tập
đoàn
Thủy
hải
sản
Minh
Phú
(Minh
Phu
Seafood
Corp)
cũng
có
ý
kiến,
mặc
dù
giá
đắt
hơn
nhưng
tôm
sú
vẫn
có
chỗ
đứng
trên
thị
trường.
Người
tiêu
dùng
ưa
chuộng
loại
tôm
này
vì
thịt
ngọt,
chắc,
cảm
quan
hấp
dẫn.
Hiện
cơ
cấu
sản
phẩm
của
Minh
Phú
gồm
40%
tôm
sú
và
60%
tôm
chân
trắng.
Minh
Phu
Seafood
Corp
đang
có
chiến
lược
nâng
tỷ
lệ
tôm
sú
lên
70%
và
tôm
chân
trắng
30%.
Phiên
3
với
bài
phát
biểu
đề
dẫn
của
Ts.
Như
Văn
Cẩn
bàn
về
định
hướng
chính
sách
và
hoạt
động
quản
lý
nhà
nước
đối
với
chuỗi
cung
ứng
tôm.
Về
các
giải
pháp,
theo
Ts.
Cẩn,
con
tôm
có
nhiều
tiềm
năng
dư
địa
phát
triển
nên
cần
được
ưu
tiên
đầu
tư.
Các
giải
pháp
quản
lý
và
cơ
chế
chính
sách
của
nhà
nước
cho
phát
triển
ngành
tôm
bao
gồm:
quy
hoạch
vùng
nuôi
tập
trung,
cải
thiện
hạ
tầng
thủy
lợi,
đầu
tư
nghiên
cứu
KHCN,
quan
trắc
môi
trường,
kiểm
soát
dịch
bệnh;
Hoàn
thiện
các
văn
bản
qui
phạm
pháp
luật,
các
quy
định,
tiêu
chuẩn-quy
chuẩn
để
kiểm
soát
điều
kiện
nuôi,
vật
tư
đầu
vào,
chất
lượng
và
an
toàn
thực
phẩm;
Tổ
chức
lại
sản
xuất
theo
hình
thức
hợp
tác
và
liên
kết
theo
chuỗi
giá
trị:
dồn
điền
đổi
thửa,
xây
dựng
các
mô
hình
liên
kết
nhằm
giảm
giá
thành,
nâng
cao
sức
cạnh
tranh;
Các
chính
sách
khuyến
khích
và
hỗ
trợ:
thu
hút
đầu
tư
của
DN,
hỗ
trợ
các
hộ
quy
mô
nhỏ
(thuế,
tín
dụng,
ưu
đãi
đầu
tư,
bảo
hiểm…);
Xem
xét
thành
lập
Hiệp
hội
tôm
Việt
Nam
nếu
thấy
thực
sự
cần
thiết
để
đây
có
thể
là
diễn
đàn,
cầu
nối
trong
chuỗi
cung
ứng
tôm
để
tập
hợp
sức
mạnh
của
toàn
chuỗi.
Phiên
cuối
cùng
của
hội
nghị
vẫn
hết
sức
sôi
nổi
với
báo
cáo
đề
dẫn
của
Tổng
Thư
ký
VASEP,
ông
Trương
Đình
Hòe
về
chế
biến
và
XK
tôm.
Ông
Hòe
đã
nêu
những
hạn
chế
và
đưa
ra
những
đề
xuất
để
nâng
cao
hiệu
quả
chế
biến
XK
tôm
như:
kiểm
soát
tốt
ATTP,
đặc
biệt
là
kháng
sinh
tại
khâu
nuôi;
tận
dụng
nguồn
nguyên
liệu
trong
nước
để
hưởng
ưu
đãi
thuế
quan
theo
quy
tắc
xuất
xứ
của
các
FTA;
kiến
nghị
Chính
phủ
hỗ
trợ
các
DN
qua
các
chương
trình
nâng
cao
nhận
thức
về
ưu
đãi
thuế
quan
đi
kèm
với
quy
tắc
xuất
xứ;
thúc
đẩy
quảng
bá
thị
trường
theo
tiếp
cận
liên
kết
chuỗi,
hợp
tác
công
tư
(PPP).
Bên
cạnh
đó,
ông
cũng
kiến
nghị
với
Chính
phủ
đầu
tư
một
cảng
biển
xứng
tầm
và
hiện
đại
tại
khu
vực
ĐBSCL
để
đáp
ứng,
thúc
đẩy
sản
xuất,
XK
toàn
vùng,
giảm
chi
phí
và
nâng
cao
sức
cạnh
tranh
của
DN;
rà
soát,
cân
đối
và
điều
chỉnh
giảm
các
trạm
thu
phí
và
mức
phí
cầu-đường
bộ
ngay
trong
2016.
Phiên
3
và
4,
các
đại
biểu
tập
trung
thảo
luận
về
các
giải
pháp
trước
mắt
và
dài
hạn
trong
công
tác
quản
lý
của
nhà
nước
với
ngành
nuôi
tôm.
Trên
tất
cả,
để
phát
triển
bền
vững
ngành
nuôi
tôm,
người
nuôi
nên
đảm
bảo
các
yếu
tố
về
môi
trường
đặc
biệt
trước
thực
trạng
biến
đổi
khí
hậu
đang
ngày
một
phổ
biến
hiện
nay
ở
các
tỉnh
ven
biển,
ông
Benjamin
Hodick,
cố
vấn
cao
cấp
của
GIZ/ICMP
cho
biết.
Tổng
kết
hội
nghị,
Ts.
Phạm
Anh
Tuấn
xác
định
nhiệm
vụ
trước
mắt
của
cơ
quan
nhà
nước
là
phải
rà
soát,
điều
chỉnh
quy
chuẩn,
tiêu
chuẩn
giống,
thức
ăn,
hóa
chất
kháng
sinh.
Có
kế
hoạch
phát
triển
cả
tôm
sú
lẫn
tôm
chân
trắng,
có
quy
trình
hướng
dẫn
nuôi
phù
hợp,
có
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
phù
hợp.
Tăng
cường
hậu
kiểm
với
chế
tài
cụ
thể,
phân
rõ
trách
nhiệm
kiểm
tra,
kiểm
soát.
Về
tổ
chức
sản
xuất,
hình
thành
chuỗi
liên
kết
và
phải
có
người
đi
tiên
phong,
hài
hòa
lợi
ích
giữa
các
bên.
Về
xúc
tiến
thương
mại
phải
thay
đổi
cách
thức
tổ
chức
truyền
thống,
DN
cần
chủ
động
hơn
trong
hoạt
động
này.
Trong
thời
gian
tới,
cơ
quan
nhà
nước
cam
kết
đồng
hành
với
DN,
người
nuôi
và
nhân
rộng
các
mô
hình
hiệu
quả.
Cơ
quan
nhà
nước
mong
các
bên
liên
quan
tiếp
tục
thảo
luận
để
có
những
bước
đi
cụ
thể
trước
mắt
và
dài
hạn
để
hướng
tới
mục
tiêu
cuối
cùng
là
nâng
cao
lợi
thế
cạnh
tranh
của
con
tôm
Việt.
Theo
VASEP