Nghiên
cứu
mô
tả
sự
phát
triển
của
hội
chứng
phân
trắng
trong
điều
kiện
thí
nghiệm
khi
tôm
bị
nhiễm
đồng
thời
EHP
và
Vibrio
parahaemolyticus.
Trước
khi
đi
vào
nghiên
cứu,
ta
cần
hiểu
rõ
về
tầm
quan
trọng
của
hệ
vi
sinh
vật
ở
hệ
thống
tiêu
hóa
của
tôm.
Thành
phần
vi
sinh
vật
chiếm
ưu
thế
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
sự
tăng
trưởng,
khả
năng
tiêu
hóa
và
miễn
dịch
của
tôm.
Khi
mật
độ
của
các
vi
khuẩn
có
hại
tăng
cao,
chúng
sẽ
gây
mất
ổn
định
hệ
vi
sinh
vật
bên
trong
các
cơ
quan
này,
gây
ảnh
hưởng
đến
khả
năng
hấp
thụ
chất
dinh
dưỡng
của
tôm
khiến
tôm
dễ
dàng
nhiễm
bệnh.
Bên
cạnh
đó,
tập
tính
ăn
thịt
đồng
loại
góp
phần
cơ
hội
cho
nhóm
vi
khuẩn
này
dễ
dàng
xâm
nhập.
Để
làm
rõ
hơn
mối
quan
hệ
giữa
EHP
(
Enterocytozoon
hepatopenaei)
và
hội
chứng
phân
trắng
cũng
như
tìm
hiểu
thêm
về
những
tác
nhân
có
thể
dẫn
đến
hội
chứng
phân
trắng,
nhóm
nghiên
cứu
đã
tiến
hành
thí
nghiệm
để
làm
rõ
điều
này.
Để
chuẩn
bị
cho
thí
nghiệm,
nhóm
nghiên
cứu
đã
tiến
hành
phân
lập
vi
khuẩn
Vibrio
parahaemolyticus từ
quần
đàn
tôm
thẻ
ở
ao
nuôi
thương
phẩm
có
biểu
hiện
hội
chứng
phân
trắng
rồi
tiến
hành
nuôi
cấy.
Nhóm
tôm
nhiễm
EHP
được
tạo
ra
bằng
cách
nuôi
chung
50
cá
thể
tôm
sạch
bệnh
(SPF)
với
nhóm
50
cá
thể
tôm
nhiễm
đã
EHP
trong
60
ngày.
Sau
khoảng
thời
gian
trên,
nhóm
nghiên
cứu
sử
dụng
phương
pháp
PCR
và
mô
bệnh
học
để
kiểm
tra
lại
số
lượng
tôm
nhiễm
EHP.
Phân
lập
V.parahaemolyticus từ
ống
gan
tụy
của
tôm
nhiễm
hội
chứng
phân
trắng.
Ảnh:
Aranguren
Caro.
Cảm
nhiễm
ngâm
(microbial
mmersion
challenge)
là
phương
pháp
gây
cảm
nhiễm
mà
đối
tượng
nghiên
cứu
được
tiếp
xúc
với
mầm
bệnh
thông
qua
môi
trường
nước.
Đầu
tiên,
chuẩn
bị
nồng
độ
vi
khuẩn
ở
một
mức
nhất
định.
Sau
đó,
thả
đối
tượng
được
nghiên
cứu
vào
trong
nước
có
chứa
vi
khuẩn
trong
khoảng
thời
gian
nhất
định.
Thông
qua
phương
pháp
này,
nhóm
nghiên
cứu
đã
thả
nhóm
tôm
sạch
bệnh
(SPF)
và
một
nhóm
tôm
đã
nhiễm
EHP
vào
trong
môi
trường
nước
có
chứa
vi
khuẩn
Vibrio
parahaemolyticus để
tạo
ra
hội
chứng
phân
trắng
trong
môi
trường
phòng
thí
nghiệm.
Cách
bố
trí
và
kết
quả
của
thí
nghiệm
được
bố
trí
và
trình
bày
theo
bảng
dưới
đây:
Nghiệm
thức
|
Bể
|
Nhóm
|
Ban
đầu
|
Kết
thúc
|
Tỷ
lệ
sống
(%)
|
Phân
đàn
(%) |
WFS |
1 |
1 |
Đối
chứng
âm
SPF |
7 |
6 |
85,7 |
21,4 |
- |
2 |
SPF+V.Parahaemolytiucs |
7 |
6 |
85,7 |
27,6 |
- |
3 |
EHP
đối
chứng
dương |
8 |
8 |
41,6 |
41,6 |
- |
4 |
EHP+V.parahaemolyticus |
7 |
4 |
40 |
40 |
+ |
2
|
1 |
Đối
chứng
âm
SPF |
10 |
9 |
12 |
12 |
- |
2 |
SPF+V.parahaemolyticus |
10 |
8 |
10.1 |
10,1 |
- |
3 |
Đối
chứng
dương
SPF |
9 |
4 |
30.8 |
30,8 |
- |
4 |
EHP+V.parahaemolyticus |
8 |
2 |
40.7 |
40,7 |
+ |
Qua
những
quan
sát
trong
suốt
quá
trình
nghiên
cứu,
cho
thấy
hội
chứng
phân
trắng
xuất
hiện
ở
những
cá
thể
tôm
bị
nhiễm
EHP
và
V.parahaemolyticus là
do
tác
động
hiệp
đồng
của
vi
bào
tử
(microsporidian)
và
một
dòng
vi
khuẩn
gây
bệnh
(cụ
thể
ở
đây
là
vi
khuẩn
V.parahaemolyticus)
trên
ống
gan
tụy.
Trong
giai
đoạn
đầu
khi
tôm
nhiễm
EHP
những
biểu
hiện
xuất
hiện
hội
chứng
phân
trắng
bao
gồm
hàm
lượng
lipid
cao
trong
ống
gan.
Tuy
nhiên,
tại
thời
điểm
này,
tôm
không
có
phản
ứng
miễn
dịch
tế
bào
rõ
ràng
như
sưng
viêm.
Sau
một
khoảng
thời
gian,
các
tế
bào
biểu
mô
bị
nhiễm
EHP
trong
ống
gan
tụy
sẽ
bong
tróc
và
tạo
ra
những
vũng
bị
tốn
thương
giúp
vi
khuẩn
có
cơ
hội
xâm
nhiễm
và
phát
triển
bệnh.
Những
cá
thể
tôm
nhiễm
hội
chứng
phân
trắng
trong
điều
kiện
phòng
thí
nghiệm.
(Ảnh
từ
nghiên
cứu)
Kết
quả
của
nghiên
cứu
cho
thấy
chỉ
những
cá
thể
tôm
đã
nhiễm
EHP
và
sau
đó
được
tiếp
xúc
với
môi
trường
có
chứa
vi
khuẩn
V.parahaemolyticus mới
xuất
các
biểu
hiện
của
hội
chứng
phân
trắng.
Bên
cạnh
đó
một
số
nghiên
cứu
tại
Thái
Lan
cũng
chỉ
ra
mối
liên
hệ
giữa
hội
chứng
phân
trắng
và
nhóm
vi
khuẩn
Vibrio.
Cụ
thể,
số
lượng
của
nhóm
vi
khuẩn
Vibrio
ở
một
con
tôm
bình
thường
là
1,8×107 CFU
(đơn
vị
hình
thành
khuẩn
lạc)/g.
Còn
ở
những
cá
thể
tôm
nhiễm
hội
chứng
phân
trắng
là
6,1×107 CFU/g.
Ngoài
V.parahaemolyticus,
các
loài
vi
khuẩn
như
V.vulnificus và
V.Damela cũng
được
tìm
thấy.