Trước
mỗi
vụ
nuôi,
cần
cải
tạo
ao
theo
đúng
kỹ
thuật
nhằm
mang
lại
hiệu
quả
tốt
nhất
và
tránh
các
thiệt
hại
không
đáng
có.
Phơi
đáy
ao
Sau
mỗi
vụ
nuôi
cần
rửa
đáy
ao,
bơm
bùn
sang
ao
chứa
bùn
để
phơi
khô
và
đổ
bỏ.
Không
nên
bơm
hay
đổ
bùn
lên
bờ
ao
vì
nước
mưa
có
thể
đem
các
chất
thải
trở
lại
ao
nuôi.
Thực
hiện
việc
rửa,
xả
vài
lần
cho
đến
khi
sạch
hẳn
thì
tiến
hành
phơi
đáy
ao.
Phơi
đáy
ao
là
một
trong
những
bước
quan
trọng
và
không
thể
thiếu
trong
kỹ
thuật
cải
tạo
ao
nuôi.
Môi
trường
đáy
ao
được
cải
tạo
kỹ
lưỡng
và
quản
lý
tốt
sẽ
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho
tôm
phát
triển
và
tăng
trưởng.
Sau
mỗi
vụ
nuôi,
đáy
ao
thường
được
phơi
khô
cho
đến
khi
đất
nứt
chân
chim.
Biện
pháp
kỹ
thuật
này
giúp
tiêu
diệt
mầm
bệnh,
giải
phóng
khí
độc
tích
tụ
trong
nền
đáy,
phân
hủy
hoàn
toàn
các
chất
thải;
thuận
lợi
cho
việc
gây
màu
nước,
phát
triển
nguồn
thức
ăn
tự
nhiên
trong
ao.
Với
những
ao
không
thể
bơm
cạn
nước
hoặc
được
cải
tạo
trong
mùa
mưa
thì
có
thể
dùng
các
chế
phẩm
sinh
học
có
khả
năng
diệt
khuẩn,
phân
hủy
tốt
chất
thải
để
xử
lý.
Lưu
ý
cần
chạy
quạt
nước
liên
tục
trong
quá
trình
xử
lý
bằng
vi
sinh.
Xới
đất
đáy
ao
Phương
pháp
phổ
biến
áp
dụng
là
cải
tạo
khô
kết
hợp
cày
xới
lại
ao
nhằm
thúc
đẩy
quá
trình
ôxy
hóa
giúp
phân
hủy
chất
hữu
cơ
và
hạn
chế
mầm
bệnh.
Đất
đáy
ao
được
xới,
ủi
lại
sẽ
làm
cho
đất
thoáng
khí
hơn
bởi
có
những
khu
vực
bị
yếm
khí
do
tích
tụ
nhiều
chất
hữu
cơ
và
khí
độc
H2S,
trừ
trường
hợp
ngoại
lệ
không
nên
cày
xới
và
phải
ngăn
chặn
sự
xói
mòn
khi
nền
đất
đáy
ao
có
tính
axít
do
chứa
quặng
sắt,
vì
sẽ
làm
pH
có
thể
bị
giảm
nghiêm
trọng.
Bón
vôi
Theo
các
chuyên
gia,
bón
vôi
xuống
ao
có
nhiều
tác
dụng:
Làm
cho
bùn
ao
có
kết
cấu
tơi
xốp,
cải
tạo
điều
kiện
không
khí
ở
đáy,
đồng
thời
thúc
đẩy
nhanh
quá
trình
phân
giải
chất
hữu
cơ
trong
ao,
giải
phóng
N,
P,
K
trong
bùn,
làm
tăng
độ
dinh
dưỡng;
giữ
ổn
định
độ
pH.
Tiến
hành
xới
đất
đáy
ao
với
độ
sâu
khoảng
từ
5
–
10
cm,
sau
đó
tiến
hành
rải
vôi
CaO
theo
liều
khoảng
từ
5
–
10
kg/100
m2 để
ổn
định
pH
nền
đáy
ao,
tiêu
diệt
mầm
bệnh
từ
vụ
nuôi
trước
và
phân
hủy
hết
các
khí
độc
(tùy
thuộc
vào
độ
pH
và
axít
của
đất).
Ngâm
xả
Áp
dụng
cho
các
ao
bị
nhiễm
phèn
hoặc
có
tôm
bị
bệnh
trong
vụ
nuôi.
Với
ao
có
nền
đất
bị
nhiễm
phèn,
rải
vôi
nóng
(CaO)
đều
trên
nền
đáy,
rồi
lấy
40
–
50
cm
nước
để
ngâm
từ
2
–
3
ngày
rồi
xả
bỏ.
Trong
trường
hợp
ao
nuôi
đã
bị
nhiễm
vi
bào
tử
trùng
EHP,
lượng
vôi
cần
dùng
là
6
tấn/ha.
Nếu
ao
đã
bị
nhiễm
bệnh
trong
vụ
trước,
có
thể
phối
hợp
xử
lý
thêm
bằng
các
chất
diệt
khuẩn
sau
khi
đã
lấy
nước.
Lặp
lại
chu
kỳ
này
từ
2
–
3
lần.
Để
đảm
bảo
hiệu
quả,
có
thể
nhờ
cán
bộ
kỹ
thuật
kiểm
tra
lại
pH
đất
hoặc
mật
độ
vi
khuẩn Vibrio.
Bón
phân
Ao
nuôi
cần
được
bón
phân
gây
màu
nước
để
động,
thực
vật
phù
du
phát
triển
làm
nguồn
thức
ăn
tự
nhiên
của
tôm,
đồng
thời
hạn
chế
sự
phát
triển
của
các
loại
tảo
đáy,
tạo
ôxy,
hấp
thụ
các
chất
độc
sinh
ra
từ
thức
ăn
dư
thừa,
chất
thải
của
tôm
trong
quá
trình
nuôi.
Phân
bón
được
hòa
tan
với
nước
trước
khi
tạt
khắp
ao
để
tránh
lắng
ở
đáy
làm
đất
giàu
dinh
dưỡng
kích
thích
tảo
đáy
phát
triển.
Lượng
phân
bón
vào
ao
phụ
thuộc
vào
diện
tích
ao
và
liều
lượng
bón
của
từng
loại
phân.
Xử
lý
nước
Lắng
Nguồn
nước
phải
chủ
động,
không
bị
ô
nhiễm,
nước
cần
đảm
bảo
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
ở
mức
>
4
mg/lít;
pH:
7
–
8,5.
Nước
từ
nguồn
cần
được
lọc
qua
lưới
để
hạn
chế
rác
và
ngăn
chặn
tôm
cá
tự
nhiên
xâm
nhập.
Để
lắng
từ
10
–
20
ngày.
Chuyển
nước
từ
ao
lắng
vào
ao
nuôi
Bơm
nước
qua
túi
lọc
bằng
vải
kate
để
loại
bỏ
địch
hại,
sinh
vật
cạnh
tranh
hoặc
vật
chủ
trung
gian
mang
mầm
bệnh
như
cua
còng,
tôm,
tép…
Diệt
tạp
Chạy
quạt
nước
liên
tục
3
ngày
để
trứng
cá
và
giáp
xác
nở
hết
rồi
tiến
hành
diệt
tạp
bằng
bột
bã
trà
(saponin),
rễ
cây
thuốc
cá
(rotenone)
hoặc
các
loại
hóa
chất
chuyên
dùng
theo
hướng
dẫn
của
nhà
sản
xuất.
Để
xử
lý
ốc
đinh
hoặc
rong
đáy
có
thể
dùng
sunphat
đồng
(CuSO4)
với
nồng
độ
xử
lý
là
2
–
3
ppm.
Diệt
khuẩn
Hai
ngày
sau
khi
diệt
tạp,
tiến
hành
diệt
khuẩn
để
loại
trừ
mầm
bệnh
có
trong
nước
ao.
Chlorine,
TCCA,
BKC,
thuốc
tím
KMnO4,
Formol,
Iodine
hay
PVP-Idodine
hiện
là
những
chất
diệt
khuẩn
được
dùng
phổ
biến
nhất.
Các
vùng
nuôi
bị
bệnh
hoại
tử
gan
tụy
cấp
tính
(EMS/AHPND)
nên
dùng
BKC
liều
0,3
ppm
(Hoàng
Tùng
et
al.,
2015).