Việc
liên
kết
“4
nhà”
trong
nuôi
tôm
ngày
càng
cần
tính
thiết
thực
hơn.
Bởi,
chỉ
cần
một
mắt
xích
bị
“trật”,
cả
chuỗi
sản
xuất
sẽ
bị
ảnh
hưởng.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
này
vẫn
còn
nhiều
việc
phải
bàn.
Lỏng
lẻo
với
nhà
khoa
học
Nuôi
trồng
không
theo
tiêu
chí
khoa
học
sẽ
dẫn
tới
phản
ứng
xấu
trên
thị
trường.
Đơn
cử,
4
tháng
đầu
năm
2015,
tôm
Việt
Nam
bị
các
thị
trường
Mỹ,
EU,
Nhật
Bản
cảnh
báo
chất
cấm
và
trả
về
36
lô,
bằng
gần
40%
năm
ngoái
(92
lô).
Như
ông
Chu
Văn
An,
Phó
Tổng
giám
đốc
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú,
nói
với
báo
chí,
trong
thời
buổi
cạnh
tranh
khốc
liệt,
doanh
nghiệp
phải
không
ngừng
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm,
cải
tiến
trang
thiết
bị
hiện
đại,
công
nghệ
cao.
Trong
đó,
sản
xuất
sản
phẩm
sạch,
không
nhiễm
hóa
chất,
kháng
sinh
theo
hướng
ứng
dụng
công
nghệ
sinh
học
được
xem
là
bước
đột
phá
để
đưa
giá
trị
sản
phẩm
tôm
tăng
cao
và
xâm
nhập
sâu
vào
những
thị
trường
lớn.
Giới
chuyên
môn
ước
tính,
một
thập
kỷ
qua,
các
phát
kiến
khoa
học
kỹ
thuật
đã
giúp
tăng
30%
tổng
sản
lượng
ngành
nông
nghiệp,
song
với
ngành
tôm
Việt
Nam,
năng
suất
nhiều
năm
qua
không
được
cải
thiện
là
bao;
công
nghiệp
chế
biến
vẫn
chủ
yếu
phục
vụ
xuất
khẩu
thô.
Theo
thời
gian
đã
dần
hình
thành
những
công
ty,
doanh
nghiệp
chuyên
làm
dịch
vụ
khoa
học
kỹ
thuật,
đưa
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
thuật
vào
cuộc
sống
mà
nhiều
nhất
có
lẽ
là
các
công
ty
liên
quan
sản
phẩm
vi
sinh,
nhưng
đặc
điểm
chính
của
các
nhà
khoa
học
này
là
vốn
ít,
sản
phẩm
cũng
hạn
chế.
Một
số
doanh
nghiệp
chuyển
giao
tiến
bộ
khoa
học
cũng
được
chú
ý,
chẳng
hạn
một
số
công
ty
chuyển
giao
mô
hình
siêu
thâm
canh
tôm
trong
nhà
lưới,
nhà
kính;
song
vấn
đề
tăng
năng
suất
và
chất
lượng
tôm
vẫn
rất
cần
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
thuật.
Áp
dụng
khoa
học
kỹ
thuật
vào
nuôi
tôm
để
tăng
năng
suất,
chất
lượng
là
việc
làm
cần
thiết
Cần
rõ
hơn
vai
trò
nhà
nước
Không
thể
phủ
nhận
vai
trò
của
nhà
nước
trong
các
mô
hình
liên
kết
“4
nhà”
thời
gian
qua;
chẳng
hạn,
trong
mô
hình
mô
hình
liên
kết
“4
nhà”
trong
thực
hiện
cánh
đồng
mẫu
lớn
lúa
-
tôm
tại
Cà
Mau,
cán
bộ
khuyến
nông
-
khuyến
ngư
trực
tiếp
hướng
dẫn
kỹ
thuật
cho
nông
dân,
giúp
năng
suất
đạt
trên
300
kg/ha/vụ,
tăng
50
-
70
kg/ha
so
với
nuôi
bên
ngoài;
hay
việc
Nhà
nước
tích
cực
hỗ
trợ
người
dân
sản
xuất
lúa
-
tôm
theo
tiêu
chuẩn
VietGAP
tại
Cà
Mau
(Tỉnh
này
phấn
đấu
1.000
ha lúa
-
tôm
đạt
chuẩn
VietGAP
trong
năm 2015 và 10.000
ha vào
năm 2020).
Song,
người
dân
và
các
chuyên
gia
cho
rằng
vai
trò
của
nhà
nước
cần
thể
hiện
rõ
hơn
trên
hai
lĩnh
vực:
xây
dựng
thương
hiệu
cho
sản
phẩm;
đồng
thời
đẩy
mạnh
vai
trò
quản
lý
nhà
nước
về
chất
lượng
(giống,
thức
ăn,
chế
biến).
Những
vùng
sản
xuất
tôm
sú
uy
tín
và
truyền
thống
như
Cà
Mau
có
cần
xây
dựng
thương
hiệu
tôm
sú
Cà
Mau
như
thương
hiệu
nước
mắm
Phú
Quốc?
Một
số
doanh
nghiệp
ở
đây
than
phiền
rằng
không
ít
doanh
nghiệp
Cà
Mau
nhưng
lại
mua
nguyên
liệu
từ
tỉnh
khác
“mạo
danh”
tôm
Cà
Mau
để
bán,
khiến
người
dân
mất
đi
niềm
tự
hào
địa
phương
của
họ.
Hay
như
ở
Bạc
Liêu
có
khoảng
400
cơ
sở
sản
xuất
và
ương
tôm
giống,
nhưng
lượng
doanh
nghiệp
sử
dụng
nguồn
tôm
bố
mẹ
sạch
bệnh
để
có
tôm
giống
chất
lượng
cao
chỉ
chiếm
20%.
Vậy
vai
trò
nhà
nước
ra
sao,
khi
tình
trạng
tôm
giống
không
đảm
bảo
chất
lượng
vẫn
trôi
nổi
trên
thị
trường?
Nếu
có
quy
hoạch
tốt,
tạo
được
môi
trường
sản
xuất
kinh
doanh
tốt,
ngành
tôm
phát
triển
thì
nguồn
thu
của
địa
phương
cũng
được
cải
thiện
đáng
kể,
vậy
tại
sao
các
cơ
quan
chức
năng
không
mạnh
tay
hơn
nữa
trong
việc
bảo
vệ
doanh
nghiệp
và
quyền
lợi
người
dân
trước
những
kẻ
trục
lợi?
Tổng
cục
Thủy
sản
cũng
đánh
giá:
Tôm
thẻ
chân
trắng
bố
mẹ
hiện
nay
nhập
khẩu
100%
từ
nhiều
nước,
chất
lượng
có
lô
tốt
lô
xấu;
không
ai
biết
được
nguồn
gốc
từ
dòng
tôm
nào
(!)
Doanh
nghiệp
và
nông
dân
chưa
cùng
“hướng”
Một
số
chủ
doanh
nghiệp
nhìn
nhận,
mối
quan
hệ
giữa
doanh
nghiệp
hiện
nay
với
nông
dân
chẳng
khác
trạng
và
chúa
trong
truyện
cổ
nọ.
Trạng
là
dân,
chúa
là
doanh
nghiệp;
trạng
chết
chúa
cũng
băng
hà.
Cả
nước
hiện
có
hơn
300
cơ
sở
chế
biến
thủy
sản
có
sản
phẩm
chủ
lực
là
tôm
nước
lợ.
ĐBSCL
có
khoảng
596.000
ha
nuôi
tôm,
chiếm
gần
91%
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
cả
nước,
diện
tích
tôm
sú
hơn
580.000
ha,
còn
lại
là
tôm
thẻ
chân
trắng.
Sản
lượng
nuôi
tôm
nước
lợ
vùng
ĐBSCL
hiện
nay
431.570
tấn/năm,
mới
đáp
ứng
được
60
-
70%
công
suất
thiết
kế
của
các
nhà
máy
chế
biến
tôm
xuất
khẩu
ở
đây,
nhưng
rất
ít
doanh
nghiệp
ký
hợp
đồng
cung
cấp
tôm
nguyên
liệu
với
nông
dân;
đây
là
một
hiện
tượng
bất
thường.
Đầu
ra
sản
phẩm
của
nông
dân
luôn
bấp
bênh,
trong
khi
nguồn
nguyên
liệu
của
nhà
máy
thường
trong
tình
trạng
ăn
đong.
Một
chuyên
gia
Pháp
thắc
mắc:
“Vì
sao
người
Việt
Nam
ít
khi
san
sẻ
cùng
nhau
quyền
và
lợi
ích
chung;
dường
như
ai
cũng
muốn
giành
phần
lợi
về
mình
nhiều
hơn”.
Thương
lái
-
câu
chuyện
dài
Câu
chuyện
liên
kết
“4
nhà”
trong
ngành
tôm
là
một
bước
đột
phá,
bởi
trước
đây
phần
nhiều
mối
quan
hệ
giữa
sản
xuất,
tiêu
thụ
chế
biến
là
qua
thương
lái.
Mặc
dù
nền
kinh
tế
được
điều
hành
qua
pháp
luật
nhưng
vẫn
tồn
tại
một
tầng
lớp
thương
lái,
chủ
vựa
đi
thu
gom
tôm
nguyên
liệu
từ
nhiều
nguồn,
phân
chia,
trộn
lẫn
với
nhau
rồi
cung
cấp
cho
các
nhà
máy.
Những
thương
lái
này
phần
nhiều
không
có
kiến
thức
chuyên
môn,
thậm
chí
không
thành
lập
doanh
nghiệp,
không
đăng
ký
kinh
doanh.
Thời
gian
gần
đây,
ngoài
các
thương
lái
Việt
Nam
còn
xuất
hiện
nhiều
thương
lái
nước
ngoài.
Đầu
năm
2015
giá
tôm
rớt
thảm,
người
dân
“treo”
ao;
các
nhà
máy
cho
rằng
giá
tôm
hạ
do
thương
lái
mua
rẻ
của
nông
dân.
Các
cơ
quan
chức
năng
cũng
thừa
nhận,
thương
lái
thao
túng
giá
cả
ngành
tôm,
nhưng
giải
pháp
với
thương
lái
thế
nào
vẫn
chưa
rõ?
>>
Một
dự
thảo
đề
án
của
ngành
đã
đặt
vấn
đề:
Các
doanh
nghiệp
chế
biến
tôm,
nếu
muốn
tiếp
tục
sản
xuất
kinh
doanh
phải
có
vùng
nguyên
liệu
tối
thiểu
10%
công
suất
và
phải
ký
hợp
đồng
mua
tôm
nguyên
liệu
có
chứng
nhận
của
cơ
quan
quản
lý
nhà
nước.
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam