Sáu
tháng
đầu
năm,
nông
nghiệp
thu
về
những
kết
quả
rất
ấn
tượng,
tạo
cơ
sở
vững
chắc
để
ngành
đặt
mục
tiêu
cao
cho
cả
năm
2021.
Tuy
nhiên,
đại
dịch
COVID-19
ập
đến
đã
làm
gián
đoạn
đà
tăng
trưởng
của
ngành
hàng
quan
trọng
này.
Để
tiếp
tục
là
“trụ
đỡ’
của
nền
kinh
tế,
nông
nghiệp
Việt
Nam
cần
thêm
nhiều
giải
pháp
hơn
nữa
trong
điều
kiện
“bình
thường
mới”.
Vẫn
có
tín
hiệu
vui
Dù
gặp
nhiều
trở
ngại
nhưng
kết
quả
chung
3
quý
đầu
năm
của
ngành
nông
nghiệp
vẫn
khá
ổn.
Theo
số
liệu
vừa
công
bố
của
Tổng
cục
Thống
kê,
tính
chung
9
tháng,
GDP
lĩnh
vực
nông,
lâm,
thủy
sản
tăng
hơn
2,7%,
đóng
góp
23,5%
vào
mức
tăng
trưởng
chung
của
nền
kinh
tế.
Tốc
độ
tăng
giá
trị
gia
tăng
khu
vực
này
trong
9
tháng
đạt
2,74%;
trong
đó,
nông
nghiệp
tăng
3,32%;
lâm
nghiệp
tăng
3,30%;
thủy
sản
tăng
1,41%.
Tuy
nhiên,
có
thể
nói
sự
tăng
trưởng
này
là
dựa
vào
phần
lớn
kết
quả
tốt
của
nửa
đầu
năm.
Bởi,
do
ảnh
hưởng
nặng
nề
từ
dịch
COVID-19,
sản
xuất
trong
nhiều
lĩnh
vực
của
ngành
nông
nghiệp
trong
quý
III
tăng
trưởng
âm.
Cụ
thể,
diện
tích
trồng
lúa
mùa
giảm,
về
hoa
màu
thì
chỉ
có
diện
tích
trồng
rau,
đậu
tăng
0,5%
so
cùng
kỳ
năm
2020,
còn
lại
ngô,
khoai
lang,
lạc,
đậu
tương
đều
giảm
khá
mạnh.
Về
chăn
nuôi,
mặc
dù
số
lượng
đàn
bò,
lợn,
gia
cầm
đều
tăng
so
cùng
kỳ,
thế
nhưng
do
chuỗi
tiêu
thụ
bị
đứt
gãy
nên
sản
phẩm
đầu
ra
bị
ùn
ứ
nặng,
giá
giảm
thê
thảm.
Trong
đó,
nặng
nề
nhất
là
với
người
nuôi
gà
công
nghiệp,
vì
có
thời
điểm
giá
1
kg
thịt
gà
lông
trắng
chưa
bằng
giá
bán
trung
bình
2
quả
trứng
gà
trên
các
chợ
dân
sinh.
Với
thủy
sản,
tổng
sản
lượng
9
tháng
đầu
năm
2021
giảm
0,2%
so
cùng
kỳ
và
đạt
gần
6,4
triệu
tấn.
Sự
sụt
giảm
này
phần
lớn
xuất
phát
từ
nuôi
trồng
khi
trong
3
quý,
sản
lượng
nuôi
trồng
giảm
1%
và
đạt
khoảng
3,32
triệu
tấn,
còn
sản
lượng
khai
thác
vẫn
tăng
nhẹ
0,7%,
đạt
hơn
3
triệu
tấn.
Kế
hoạch
để
thích
ứng
Bộ
NN&PTNT
nhận
định,
những
tháng
cuối
năm
2021,
dịch
COVID-19
còn
nhiều
diễn
biến
phức
tạp,
tác
động
tiêu
cực
đến
sản
xuất,
tiêu
thụ
nông
sản
cũng
như
việc
cung
ứng
nguyên,
vật
liệu
phục
vụ
sản
xuất.
Để
tránh
thiếu
hụt
nguồn
cung,
các
địa
phương
đã
lên
dần
kế
hoạch
“bù
đắp”.
Điển
hình
là
tại
Hà
Nội,
theo
đại
diện
Sở
NN&PTNT
thành
phố:
Với
rau
vụ
đông,
Hà
Nội
sẽ
gieo
trồng
12.932
ha,
đồng
thời
mở
rộng
diện
tích
sản
xuất
rau
trái
vụ,
rau
vụ
đông
sớm
với
khoảng
500
–
600
ha;
đồng
thời,
tăng
diện
tích
sản
xuất
thủy
sản
để
đạt
sản
lượng
120.000
tấn/năm…
Nhằm
trợ
sức
cho
các
địa
phương,
Bộ
NN&PTNT
chỉ
đạo
các
đơn
vị
liên
quan
bám
sát
nhu
cầu
thị
trường,
giá
vật
tư
nông
nghiệp
để
kịp
thời
có
giải
pháp
thích
ứng.
Hướng
dẫn
địa
phương,
doanh
nghiệp,
HTX…
điều
chỉnh
kế
hoạch
sản
xuất
phù
hợp
với
tình
hình
thời
tiết,
dịch
bệnh
tại
từng
tỉnh,
thành;
xây
dựng
“vùng
xanh”
cho
nông
sản
để
không
làm
đứt
gãy
chuỗi
cung
ứng,
đảm
bảo
chống
dịch
hiệu
quả
và
nhu
cầu
lương
thực,
thực
phẩm
cho
tiêu
dùng
trong
nước
cũng
như
xuất
khẩu.
Cụ
thể,
về
thủy
sản,
tập
trung
phát
triển
nuôi
các
đối
tượng
chủ
lực
(tôm
sú,
TTCT,
cá
tra)
và
các
đối
tượng
có
giá
trị
kinh
tế
cao;
nâng
cao
chất
lượng
khai
thác;
tổ
chức
lại
sản
xuất
trên
biển
theo
mô
hình
hợp
tác,
liên
kết
chuỗi;
theo
dõi
sát
thời
tiết,
dự
báo
ngư
trường
để
hỗ
trợ
ngư
dân
sản
xuất
an
toàn,
hiệu
quả…
Cùng
đó,
Bộ
NN&PTNT
cũng
tăng
cường
các
giải
pháp
để
khơi
thông
khâu
tiêu
thụ
sản
phẩm
nhằm
tránh
ùn
ứ
dẫn
đến
giá
giảm
sâu
như
đối
với
nhiều
sản
phẩm
trong
thời
gian
qua.
Đồng
thời,
phối
hợp
với
các
địa
phương
xác
định
và
xây
dựng
“luồng
xanh”,
“vùng
xanh”
cho
nông
sản
để
không
làm
đứt
gãy
chuỗi
cung
ứng.
Gỡ
khó
trong
xuất
khẩu
Bên
cạnh
đảm
bảo
sản
xuất
hanh
thông,
tiêu
thụ
trong
nước
ổn
định,
Bộ
NN&PTNT
đặc
biệt
chú
trọng
tới
tình
hình
xuất
khẩu.
Theo
đánh
giá,
xuất
khẩu
nông
sản
thời
gian
tới
vẫn
còn
nhiều
khó
khăn.
Việc
thiếu
container
rỗng,
giá
cước
cao
và
khó
đoán
đã
tác
động
mạnh
đến
xuất
khẩu
tới
các
thị
trường
lớn
như
Mỹ,
EU…
Ngoài
ra,
lãi
suất,
chi
phí
vận
tải,
các
loại
phí
cảng
cao
cũng
làm
giảm
tính
cạnh
tranh
của
hàng
hóa
xuất
khẩu
của
Việt
Nam.
Thêm
nữa,
nguy
cơ
thiếu
nguyên
liệu
cho
các
nhà
máy
chế
biến
đang
dần
hiện
rõ
do
sản
xuất
trong
nước
khó
khăn
còn
nhập
khẩu
nhiều
trở
ngại.
Bên
cạnh
đó,
mặc
dù
là
thị
trường
chính
nhưng
việc
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
cũng
còn
bấp
bênh.
Dù
có
lợi
thế
từ
việc
giảm
thuế
nhập
khẩu
theo
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
ASEAN
–
Trung
Quốc,
nhưng
nhiều
loại
nông
sản
chủ
lực
của
Việt
Nam
chưa
được
nước
này
cấp
phép
chính
ngạch,
mở
cửa
thị
trường
về
kỹ
thuật,
do
vậy
vẫn
chưa
thể
tận
dụng
được
những
lợi
thế
này.
Điển
hình
là
với
sầu
riêng,
khoai
lang,
chanh
leo,
tổ
yến,
sứa
ướp
muối,
tôm
sú,
TTCT
ướp
đá…
Chưa
kể,
Trung
Quốc
vẫn
tiếp
tục
kiểm
soát
nghiêm
ngặt
khu
vực
cửa
khẩu
biên
giới
đất
liền
để
phòng,
chống
dịch
COVID-19
tác
động
đến
tiến
độ
thông
quan
hàng
hóa
của
Việt
Nam
sang
thị
trường
này.
Nhằm
gỡ
khó
khâu
thị
trường,
Bộ
NN&PTNT
đã
đề
nghị
Bộ
Công
thương
phối
hợp
để
khắc
phục
các
tồn
tại
hiện
có.
Mặt
khác,
đổi
mới
công
tác
thông
tin,
đa
đạng
hóa
công
tác
xúc
tiến
xuất
khẩu
nông,
lâm,
thủy
sản
thông
qua
các
sàn
giao
dịch
thương
mại
điện
tử
đối
với
thị
trường
xuất
khẩu
trọng
điểm…
Giải
quyết
điều
này
không
dễ
nhưng
buộc
phải
làm
để
kim
ngạch
xuất
khẩu
các
sản
phẩm
nông
nghiệp
Việt
Nam
tiếp
tục
có
được
thị
phần
tốt
trên
thế
giới.
Nhưng,
theo
Thứ
trưởng
Bộ
NN&PTNT
Phùng
Đức
Tiến
thì
quan
trọng
là
cần
cân
đối
lại
sản
xuất
nông
sản,
tính
toán
hợp
lý
với
diện
tích,
năng
suất,
sản
lượng
được
thì
tiêu
thụ
trong
nước
bao
nhiêu
và
dự
kiến
xuất
khẩu
thế
nào
để
chủ
động
điều
tiết,
tránh
ùn
ứ
ở
các
cửa
khẩu
như
những
năm
qua.
Trợ
sức
cho
sản
xuất
Để
hoàn
thành
kế
hoạch
sản
xuất
nông,
lâm,
thủy
sản
trong
bối
cảnh
dịch
COVID-19
còn
diễn
biến
phức
tạp;
đảm
bảo
chủ
động
nguồn
cung
lương
thực,
thực
phẩm
phục
vụ
tiêu
dùng
trong
nước
và
xuất
khẩu
những
tháng
cuối
năm;
vừa
qua,
Bộ
NN&PTNT
kiến
nghị
Chính
phủ
xem
xét
giảm
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp;
giảm
thuế
nhập
khẩu
nguyên
liệu
thức
ăn
chăn
nuôi,
thủy
sản,
vật
tư
đầu
vào;
giảm
thuế
bảo
vệ
môi
trường.
Đồng
thời,
có
chính
sách
khuyến
khích,
hỗ
trợ
doanh
nghiệp,
cơ
sở
thu
mua
chế
biến
nông
sản
liên
kết
với
các
HTX,
các
vùng
nguyên
liệu
để
đẩy
mạnh
chế
biến,
chế
biến
sâu…
Những
vấn
đề
này
đã
được
Chính
phủ
dần
tháo
gỡ
bằng
nhiều
văn
bản,
chính
sách
cụ
thể.
Điển
hình
là
Chỉ
thị
số
26/CT-TTg
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
ban
hành
ngày
21/9/2021
về
việc
“Thúc
đẩy
sản
xuất,
lưu
thông,
tiêu
thụ
và
xuất
khẩu
nông
sản
trong
bối
cảnh
phòng,
chống
dịch
COVID-19”.
Ngoài
ra,
còn
phải
kể
đến
những
quyết
sách
như:
Cắt
giảm
30%
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp
cho
các
doanh
nghiệp
quy
mô
vừa
và
nhỏ
có
doanh
số
dưới
200
tỷ
đồng/năm;
Kéo
dài
thời
gian
miễn
thuế
sử
dụng
đất
nông
nghiệp
giai
đoạn
2021
–
2025;
Giãn,
hoãn
thuế
giá
trị
gia
tăng,
thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp,
tiền
thuê
đất,
giảm
tiền
điện
và
các
chính
sách
nới
lỏng
về
tín
dụng
của
các
ngân
hàng…
Điều
này
giúp
doanh
nghiệp
có
thêm
nguồn
lực
tài
chính
để
tăng
sức
chống
đỡ
trước
các
nguy
cơ
đứt
gãy
chuỗi
cung
ứng,
bất
ổn
hay
sự
suy
giảm
của
thị
trường.
Bên
cạnh
đó,
thời
gian
tới,
hai
Tổ
công
tác
đặc
biệt
của
Bộ
NN&PTNT
sẽ
tiếp
tục
phối
hợp
với
các
Bộ,
ngành,
địa
phương
trong
việc
đảm
bảo
duy
trì
sản
xuất,
cung
ứng
và
tiêu
thụ
nông
sản.
Và
trước
mắt,
sẽ
ưu
tiên
tiêm
vaccine
COVID-19
cho
người
lao
động
tại
các
doanh
nghiệp;
“khơi
thông”
vấn
đề
đi
lại
giữa
các
địa
phương
để
tạo
điều
kiện
cho
người
lao
động
trở
lại
làm
việc.
Đảm
bảo
doanh
nghiệp
đủ
nhân
lực
tăng
công
suất
chế
biến,
sớm
lấy
lại
đà
xuất
khẩu
cũng
như
tránh
tồn
đọng
sản
phẩm
cho
người
nông
dân…
Chỉ
có
như
vậy,
ngành
nông
nghiệp
mới
có
thể
hoàn
thành
kế
hoạch
là
phấn
đấu
tốc
độ
tăng
trưởng
GDP
đạt
3
–
3,2%,
giá
trị
sản
xuất
tăng
từ
3,2
–
3,5%;
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu
cả
năm
khoảng
44
tỷ
USD,
tăng
khá
so
năm
2020.