Làm
gì
để
tôm
Việt
cạnh
tranh
sòng
phẳng?
Con
tôm
đang
ngày
càng
phải
đối
mặt
sự
cạnh
tranh
khốc
liệt
từ
các
đối
thủ,
nhất
là
trong
bối
cảnh
những
nước
sản
xuất
tôm
chính
đều
thực
hiện
cải
tiến
về
công
nghệ
để
giảm
giá
thành.
Con
tôm
Việt
Nam
sẽ
phải
làm
gì
để
tạo
phân
khúc
và
thương
hiệu
thay
vì
xuất
khẩu
giá
rẻ?
Lợi
thế
lớn
Hiện
nay,
diện
tích
nuôi
tôm
của
Việt
Nam
khoảng
700.000
ha.
Thời
tiết
thuận
lợi
tạo
điều
kiện
cho
việc
tôm
trồng
tiến
hành
quanh
năm,
đảm
bảo
nguyên
liệu
để
các
doanh
nghiệp
chế
biến
duy
trì
hoạt
động
thường
xuyên.
Cùng
đó,
Việt
Nam
hiện
có
100
nhà
máy
chế
biến
tôm
với
công
suất
trung
bình
khoảng
500.000
-
700.000
tấn/năm,
có
thể
mở
rộng
sản
xuất
trong
thời
gian
ngắn.
Trong
đó,
nhiều
nhà
máy
quy
mô
lớn
như
Minh
Phú,
Quốc
Việt…
với
các
sản
phẩm
chế
biến
giá
trị
gia
tăng.
Về
chính
sách,
hiện
nhóm
hàng
này
đang
dành
được
sự
quan
tâm
và
ưu
đãi
của
Chính
phủ,
Bộ,
ngành.
Bộ
trưởng
Bộ
NN&PTNT
Nguyễn
Xuân
Cường
cho
biết,
trong
vài
năm
gần
đây
ngành
tôm
nước
ta
đã
rất
sáng
tạo,
nỗ
lực
phấn
đấu,
hình
thành
một
ngành
sản
xuất
phát
triển
khá
toàn
diện,
có
sự
tiếp
cận
và
phản
ứng
tốt
trước
diễn
biến
của
thị
trường.
Về
tổng
thể,
đã
tổ
chức
quản
trị
rất
tốt,
sản
xuất
kinh
doanh
có
hiệu
quả,
liên
tục
đạt
mức
tăng
trưởng
cao.
Theo
số
liệu
của
Tổng
cục
Thủy
sản,
trong
8
tháng
đầu
năm,
sản
lượng
tôm
nước
lợ
tăng
khá,
đạt
hơn
494
nghìn
tấn
(tăng
10,6%
so
cùng
kỳ
năm
2017).
Những
tháng
đầu
năm
2018,
giá
tôm
nguyên
liệu
(tôm
thẻ
chân
trắng)
giảm
sâu;
tuy
nhiên,
thời
gian
gần
đây
giá
đang
tăng
trở
lại.
Dự
báo
những
tháng
cuối
năm
2018,
giá
tôm
nguyên
liệu
vẫn
duy
trì
xu
hướng
tăng.
Đây
là
tín
hiệu
tích
cực
đối
với
lĩnh
vực
nuôi
tôm.
Kiểm
soát
giá
đầu
vào
Theo
đánh
giá,
một
trong
những
nguyên
nhân
khiến
tôm
Việt
Nam
kém
sức
cạnh
tranh
trên
thị
trường
thế
giới
chính
là
vấn
đề
giá
thành
sản
xuất.
Cụ
thể,
giá
tôm
nguyên
liệu
của
nước
ta
thường
cao
hơn
5.000
-
10.000
đồng/kg.
Một
phần
là
do
diện
tích
nuôi
tôm
còn
manh
mún,
nhỏ
lẻ
(trung
bình
1
-
2
ha/hộ),
trong
khi
thế
giới
hình
thành
các
vùng
nuôi
tôm
tập
trung
từ
hàng
trăm
đến
hàng
nghìn
ha
mỗi
hộ);
cộng
với
giá
thức
ăn,
vi
sinh,
thuốc
cao
hơn
10
-
20%
do
nguyên
liệu
phần
lớn
phải
nhập
khẩu…
Theo
các
chuyên
gia,
phải
có
giải
pháp
giảm
chi
phí
sản
xuất
và
gia
tăng
các
sản
phẩm
giá
trị
cao
để
khai
thác
tốt
cả
phân
khúc
thị
trường
trung
bình,
cạnh
tranh
trực
tiếp
về
giá
và
các
thị
trường
ngách
chấp
nhận
trả
giá
cao
cho
sản
phẩm
chất
lượng.
Một
trong
những
giải
pháp
đó
là
ứng
dụng
công
nghệ
nuôi
tôm
tiên
tiến,
nuôi
tôm
nhiều
giai
đoạn
giúp
hạn
chế
dịch
bệnh,
tăng
sức
đề
kháng
cho
tôm,
nuôi
cỡ
lớn
(20
-
30
con/kg),
không
sử
dụng
hóa
chất
kháng
sinh...
Theo
ghi
nhận,
mô
hình
nuôi
tôm
hai
giai
đoạn
giúp
tiết
kiệm
100
-
120
triệu
đồng/ha/năm.
Hướng
tới
mục
tiêu
lớn
Trong
Đề
án
tổng
thể
phát
triển
ngành
công
nghiệp
tôm
nước
lợ
Việt
Nam
đến
năm
2030,
ngành
nông
nghiệp
đặt
mục
tiêu
phát
triển
ngành
tôm
nước
lợ
thành
ngành
công
nghiệp
hiện
đại,
đồng
bộ
và
hiệu
quả
thông
qua
việc
thu
hút
đầu
tư,
ứng
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học
và
công
nghệ
vào
toàn
bộ
chuỗi
sản
xuất,
chế
biến
và
tiêu
thụ
để
nâng
cao
năng
suất,
sản
lượng
và
giá
trị
thương
mại
của
các
sản
phẩm
tôm.
Đề
án
tập
trung
đầu
tư
phát
triển
hai
loài
tôm
sú
(Penaeus
monodon) và
tôm
thẻ
chân
trắng
(litopenaeus vannamei)
tại
các
tỉnh,
thành
phố
ven
biển
điều
kiện
phù
hợp
cho
sinh
trưởng
và
phát
triển
của
tôm
nước
lợ.
Cụ
thể,
đến
năm
2030,
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
Việt
Nam
giữ
ổn
định
ở
mức
750.000
ha
(như
năm
2025),
sản
lượng
tôm
nuôi
đạt
trên
1.300.000
tấn;
trong
đó,
nuôi
tôm
sú
là
600.000
ha,
sản
lượng
550.000
tấn
và
tôm
thẻ
chân
trắng
là
150.000
ha,
sản
lượng
trên
750.000
tấn.
Chủ
động
gia
hóa,
chọn
tạo
và
sản
xuất
đạt
100%
số
tôm
sú
và
tôm
thẻ
chân
trắng
bố
mẹ
phục
vụ
sản
xuất
trong
nước.
Tổng
giá
trị
kim
ngạch
xuất
khẩu
tôm
nước
lợ
đạt
trên
12
tỷ
USD.
Để
hoàn
thành
kế
hoạch
này,
theo
ông
Trần
Văn
Lĩnh,
Giám
đốc
Công
ty
CP
Thương
mại
và
Thủy
sản
Thuận
Phước,
điều
quan
trọng
là
phải
nâng
cao
hiệu
quả
sản
xuất
hơn
nữa,
tạo
giá
trị
cho
người
nuôi
và
doanh
nghiệp.
Cần
đẩy
mạnh
ứng
dụng
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
thuật
vào
sản
xuất
để
giúp
giảm
giá
thành,
chủ
động
nguồn
giống,
có
những
giống
mới
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
thị
trường
và
phù
hợp
với
địa
lý,
khí
hậu
phát
triển
tại
các
vùng,
miền;
nguồn
nguyên
liệu
thức
ăn
rẻ,
quy
hoạch
vùng
nuôi
tập
trung
để
đảm
bảo
nguồn
nguyên
liệu
ổn
định,
sạch
phục
vụ
chế
biến,
xuất
khẩu;
không
phát
triển
nuôi
tôm
ồ
ạt
theo
phong
trào,
chạy
theo
sản
lượng
và
kim
ngạch.
Điều
quan
trọng
là
ngành
tôm
cần
hướng
đến
việc
tập
trung
vào
lợi
thế
cạnh
tranh
của
Việt
Nam
(chất
lượng
và
giá
thành),
chú
trọng
hơn
đến
khâu
nuôi
trồng
để
giúp
các
doanh
nghiệp
có
nguồn
cung
ổn
định,
đáp
ứng
yêu
cầu
xuất
khẩu,
tạo
sự
cạnh
tranh
tốt
hơn
trên
thị
trường.
>> Hiện
nay,
tại
Ecuador,
người
nuôi
đã
ứng
dụng
hệ
thống
siêu
âm
thanh
trong
nhà
kính
cho
giai
đoạn
tiền
tăng
trưởng
và
công
nghệ
cho
ăn
bằng
âm
thanh
giúp
giảm
lượng
thức
ăn
tới
30%,
tỷ
lệ
sống
tăng
50%,
tăng
trưởng
15%,
rất
nhiều
trại
tôm
sử
dụng
vi
sinh
thay
thế
kháng
sinh.
Đây
cũng
là
điều
mà
ngành
tôm
Việt
Nam
cần
học
hỏi. |
Thủy
sản
Việt
nam