Vấn
đề
lạm
dụng
kháng
sinh
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
đã
được
cảnh
báo
từ
lâu,
tuy
nhiên,
hào
quang
thành
tích
đã
phần
nào
che
lấp
mặt
trái
của
nó.
“Ao
làng”
có
thể
qua
mặt
được,
nhưng
khi
càng
hội
nhập
sâu
vào
kinh
tế
thế
giới
thì
rất
dễ
bị
loại
khỏi
“cuộc
chơi”.
Quá
nhiều
điều
tiếng
Việt
Nam
ngày
càng
đóng
vai
trò
quan
trọng
hơn,
trên
thị
trường
thủy
sản
thế
giới,
nhưng
sự
phát
triển
quá
nóng
cùng
với
tư
duy
“ăn
xổi
ở
thì”
cũng
khiến
ngành
thủy
sản
chịu
nhiều
điều
tiếng.
Theo
báo
cáo
của
Tổ
chức
Phát
triển
Công
nghiệp
của
Liên
hợp
quốc
(UNIDO)
ở
4
thị
trường
lớn
EU,
Mỹ,
Nhật
Bản,
Australia
thì
Việt
Nam
là
một
trong
3
nước
đứng
đầu
số
vụ
bị
từ
chối
nhập
khẩu
sản
phẩm
thủy
sản
giai
đoạn
2006
-
2010.
Điều
lạ
là
không
ít
những
sự
phê
phán,
không
ít
bài
học
đắt
giá
được
rút
ra
từ
những
vụ
hàng
bị
từ
chối
nhập
khẩu
nhưng
ngành
thủy
sản
vẫn
còn
những
công
ty
“chứng
nào
tật
nấy”.
Không
những
thế,
ngày
càng
nhiều
công
ty
“dính
chàm”.
Chỉ
tính
từ
đầu
năm
2014
đến
tháng
9/2015,
cả
nước
đã
có
gần
32.000
tấn
hàng
thủy
sản
bị
trả
về
do
nhiễm
kháng
sinh
cấm,
vi
sinh
và
các
loại
tạp
chất
khác,
cũng
như
vi
phạm
một
số
quy
định
nhập
khẩu.
9
tháng
đầu
năm
2015,
542
lô
hàng
thủy
sản
của
110
công
ty
xuất
khẩu
bị
38
nước
nhập
khẩu
trả
về.
Do
dịch
bệnh?
Nhiễm
kháng
sinh
cấm
diễn
ra
ở
cả
khâu
nuôi
trồng
và
chế
biến
xuất
khẩu.
Nhiều
chuyên
gia
cho
rằng
khâu
nuôi
trồng
là
chủ
yếu
nhưng
cũng
có
cả
khâu
bảo
quản.
Thống
kê
cho
thấy
tỷ
lệ
nuôi
tôm
thành
công
ở
Việt
Nam
chỉ
30
-
35%,
trong
khi
Ấn
Độ,
Thái
Lan
trên
70%.
Một
số
nhà
khoa
học
thừa
nhận
dịch
bệnh
trên
tôm
khá
phổ
biến,
vì
tôm
là
loài
khó
nuôi,
dễ
bị
bệnh.
Năm
2014
và
đặc
biệt
đầu
năm
2015
dịch
bệnh
trên
tôm
diễn
biến
phức
tạp,
nhiều
loại
bệnh
khác
nhau,
tôm
chết
khá
nhiều.
Các
loại
dịch
bệnh
như
đốm
trắng,
hoại
tử
gan
tụy,
đường
ruột,
phân
trắng,
vi
bào
tử
trùng…
gây
chết
tôm
nuôi
ở
nhiều
tỉnh,
thành
phố.
Trong
bối
cảnh
đó,
việc
sử
dụng
kháng
sinh
có
thể
nói
là
đã
hạn
chế
được
một
phần
thiệt
hại
do
dịch
bệnh
gây
ra,
không
để
tình
trạng
tôm
chết
hàng
loạt
như
những
năm
trước,
giữ
được
yếu
tố
sản
lượng.
Song,
có
lẽ
việc
phải
sử
dụng
kháng
sinh
phòng
chống
bệnh
cho
tôm
thời
gian
qua
cũng
là
một
trong
những
nguyên
nhân
khiến
các
lô
hàng
tôm
xuất
khẩu
có
dấu
hiệu
tồn
dư
kháng
sinh
quá
mức
cho
phép
và
bị
trả
lại.
Cục
Quản
lý
Chất
lượng
Nông
Lâm
sản
và
Thủy
sản
(NAFIQAD)
cho
rằng,
cơ
sở
nuôi
chưa
tuân
thủ
đúng
thời
gian
ngừng
sử
dụng
thuốc
trước
khi
thu
hoạch
đối
với
một
số
hóa
chất,
kháng
sinh
được
phép
sử
dụng,
dẫn
đến
tồn
dư
kháng
sinh
trên
tôm.
Quản
lý
lỏng
lẻo
Hơn
ai
hết,
các
doanh
nghiệp
muốn
sản
phẩm
của
mình
được
thị
trường
chấp
nhận;
họ
sẵn
sàng
đầu
tư
hàng
chục
tỷ
đồng
mỗi
năm
để
kiểm
soát
chất
cấm,
giảm
dư
lượng
kháng
sinh
trong
tôm,
nhưng
lực
bất
tòng
tâm.
Khác
với
xuất
khẩu
cá
tra,
rất
nhiều
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
tôm
không
chủ
động
được
vùng
nguyên
liệu,
do
đó
việc
thu
mua
tôm
từ
nhiều
nguồn,
thông
qua
đầu
nậu
khiến
đầu
vào
rất
khó
kiểm
soát.
Song,
hiện
tượng
năm
nay
có
doanh
nghiệp
bị
trả
lại
54
lô
hàng,
một
công
ty
khác
bị
trả
70
lô
hàng
phản
ánh
thực
trạng
các
vùng
nuôi
đang
rất
đáng
báo
động.
Thông
tin
cho
biết
năng
lực
kiểm
nghiệm
của
Việt
Nam
hiện
nay
chỉ
mới
đạt
ở
mức
600
hoạt
chất
trong
tổng
số
3.000
hoạt
chất
đang
lưu
hành.
Việc
thị
trường
buôn
bán
hóa
chất,
buôn
bán
kháng
sinh
bị
thả
nổi,
nhiều
vi
phạm
đã
ảnh
hưởng
nhiều
tới
chất
lượng
tôm
nuôi.
Một
số
hộ
nuôi
tôm
cho
biết
“thức
ăn
giả
còn
dễ
phát
hiện
hơn
thuốc
giả”.
“Mua
thuốc
về
thả
nhưng
tôm
vẫn
chết
mà
không
biết
kêu
ai”.
Do
thuốc
không
đảm
bảo
chất
lượng,
người
dân
phải
dùng
nhiều
thuốc
và
nhiều
chủng
loại
khác
nhau,
dẫn
đến
thuốc
không
còn
phát
huy
hiệu
quả
và
tồn
dư
kháng
sinh
cao.
Cùng
đó,
khi
chưa
xử
lý
được
dịch
bệnh
hiệu
quả
thì
việc
người
dân
không
tiếp
tay
mua
kháng
sinh
đổ
vào
ao
tôm
để
cứu
tôm
vẫn
còn
diễn
ra
và
việc
tồn
dư
vượt
ngưỡng
vẫn
đe
dọa
thương
hiệu
tôm
Việt
Nam.
Nguy
cơ
mất
thương
hiệu
Nếu
như
trước
kia,
trong
nền
kinh
tế
bao
cấp,
việc
quy
hoạch
sản
xuất
diễn
ra
cứng
nhắc,
máy
móc
bao
nhiêu,
thì
ngày
nay
trong
nền
kinh
tế
thị
trường,
việc
nuôi
trồng
chế
biến
thiếu
quy
hoạch
lại
diễn
ra
phổ
biến
bấy
nhiêu.
Nhiều
người
cho
rằng
kinh
tế
thị
trường
không
cần
quy
hoạch
nhưng
điều
đó
không
hẳn
đúng.
Nếu
không
có
quy
hoạch
thì
thị
trường
sẽ
rơi
vào
tình
trạng
cung
cầu
không
cân
xứng
và
quyền
lợi
người
tiêu
dùng
sẽ
bị
ảnh
hưởng.
Một
số
doanh
nghiệp
cho
rằng
thị
trường
tôm
thế
giới
có
nhiều
tiêu
chuẩn
khác
nhau,
do
vậy
có
thể
không
đạt
tiêu
chuẩn
ở
nước
này
nhưng
vẫn
đạt
ở
nước
khác.
Chẳng
qua
tôm
Việt
Nam
chỉ
“xuất
khẩu
sai
địa
chỉ”.
Vậy
vấn
đề
đặt
ra
là
tại
sao
không
có
những
quy
hoạch
nuôi
tôm
cho
từng
thị
trường
để
việc
nuôi
trồng
đạt
hiệu
quả
hơn?
Hay
việc
yêu
cầu
nuôi
trồng
và
chế
biến
phải
đảm
bảo
quy
chuẩn
bắt
buộc,
vì
hiện
nay
chưa
có
quy
trình
chuẩn
nào
cho
nuôi
trồng,
chế
biến
xuất
khẩu
tôm.
Việc
rà
soát,
thậm
chí
cấp
chứng
nhận
cho
sản
phẩm
thuốc
kháng
sinh
được
lưu
hành
và
nghiêm
cấm
nạn
làm
thuốc
giả,
thuốc
nhái,
thuốc
kém
chất
lượng
hoàn
toàn
phụ
thuộc
vai
trò
nhà
nước.
Những
người
quản
lý
thú
y
đều
biết
việc
làm
thuốc
giả,
thuốc
nhái,
kém
chất
lượng
đem
tới
siêu
lợi
nhuận
cho
kẻ
làm
giả
nhưng
lại
tác
hại
lớn
đến
người
nuôi
trồng.
Song
lớn
hơn
cả
là
uy
tín
thương
hiệu
tôm
Việt
Nam
đang
bị
đe
dọa
bởi
những
sản
phẩm
kém
chất
lượng
ngày
càng
xuất
hiện
nhiều
hơn.
Theo
đại
diện
Cục
Thú
y,
Cục
đã
đề
nghị
Bộ
NN&PTNT,
đối
với
tôm
nguyên
liệu
và
sản
phẩm
thủy
sản
khác
nhập
khẩu
để
gia
công
bị
nhiễm
bệnh,
chất
tồn
dư
thì
cần
tăng
tần
suất
lấy
mẫu
từ
các
nhà
máy
chế
biến
để
kiểm
tra
các
chỉ
tiêu
mầm
bệnh,
chất
tồn
dư…
Nếu
tiếp
tục
vi
phạm
sẽ
thông
báo
tạm
ngừng
nhập
khẩu.
Theo
Thủy
sản
Việt
nam