Kiểm
soát
chặt
nguồn
cung,
nâng
cao
chất
lượng,
sản
xuất
các
loại
giống
thủy
sản
mới
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
ngày
càng
cao
của
thị
trường,
tiến
tới
chủ
động
nguồn
cung
giống
“made
in
Việt
Nam”…
là
những
mục
tiêu
mà
Bộ
NN&PTNT,
Tổng
cục
Thủy
sản
hướng
đến
trong
các
hoạt
động
nghiên
cứu,
sản
xuất
và
cung
ứng
giống
thủy
sản.
Thành
bại…
tại
giống
Cách
đây
hơn
10
năm,
trong
sản
xuất
nông
nghiệp
(trong
đó
có
thủy
sản),
từ
sự
trải
nghiệm
thực
tế,
ông
bà
ta
đã
đúc
kết
thành
câu:
“Nhất
nước,
nhì
phân,
tam
cần,
tứ
giống”.
Tuy
nhiên,
ngày
nay
với
nền
sản
xuất
thay
đổi
mạnh,
con
giống
được
đưa
lên
tầm
quan
trọng
hàng
đầu
“nhất
giống,
nhì
môi,
tam
cần,
tứ
thuốc”.
Đặc
biệt
trong
nuôi
tôm
nước
lợ,
chỉ
cần
chọn
được
giống
tốt
thì
vụ
tôm
đó
gần
như
thành
công.
Một
hộ
nuôi
tôm
tại
Quảng
Nam
chia
sẻ,
nhiều
năm
qua,
gia
đình
ông
chỉ
thả
giống
TTCT
chất
lượng
tốt,
đã
qua
kiểm
soát
chất
lượng.
Phương
châm
nuôi
của
gia
đình
ông
là
“phòng
bệnh
hơn
chữa
bệnh”
bởi
vậy
nên
ưu
tiên
hàng
đầu
của
ông
chính
là
con
giống
chất
lượng.
Sau
khi
thả
nuôi,
ông
luôn
sẵn
sàng
tâm
lý
phòng
dịch
bệnh.
Để
đề
phòng
những
ngày
nắng
nóng
tôm
nuôi
bị
sốc,
ông
trữ
sẵn
vitamin,
chế
phẩm
sinh
học,
bổ
trợ
cho
tôm
nuôi
khi
cần
thiết.
Có
lẽ
vì
thế
mà
hiếm
vụ
nuôi
nào
gia
đình
ông
thất
bại.
Dù
quyết
định
thành
bại
của
nghề
nuôi
tôm
nhưng
đến
nay
một
phần
không
nhỏ
tôm
giống
trên
thị
trường
vẫn
chưa
đảm
bảo
chất
lượng.
Theo
Tổng
cục
Thủy
sản,
tính
đến
hết
tháng
7/2017,
cả
nước
có
1.863
cơ
sở
sản
xuất
giống
nước
lợ,
sản
xuất
được
70,7
tỷ
con
giống.
Tuy
nhiên,
hiện
nay
tôm
sú
bố
mẹ
mới
chủ
động
được
khoảng
50%,
còn
lại
chủ
yếu
được
khai
thác
từ
vùng
biển
Rạch
Gốc,
tỉnh
Cà
Mau
trong
vùng
nước
gần
bờ
nên
hệ
số
thành
thục
không
cao;
Một
số
cơ
sở
chưa
thực
hiện
công
bố
chất
lượng
tôm
sản
xuất
từ
nguồn
tôm
bố
mẹ
nhập
khẩu
và
tôm
chọn
tạo
trong
nước;
Tôm
bố
mẹ
mang
về
sản
xuất
giống
chưa
được
kiểm
tra
các
loại
bệnh
nên
khả
năng
các
cá
thể
bố
mẹ
này
mang
mầm
bệnh
là
rất
cao;
Các
doanh
nghiệp
sản
xuất
tôm
giống
tuy
có
đăng
ký
giấy
tờ
đầy
đủ
nhưng
khi
xuất
bán
lại
không
đóng
gói
đúng
tên
công
ty,
nhãn
mác
đã
đăng
ký,
thậm
chí
nhiều
công
ty
không
có
cơ
sở
sản
xuất
giống
nhưng
lại
có
giống
bán
tràn
lan
trên
thị
trường…
Đảm
bảo
đủ
giống
tốt
Khảo
sát
thực
tế
tình
hình
nuôi
tôm
của
bà
con
vùng
ĐBSCL
cho
thấy,
người
nuôi
tôm
nào
chọn
được
giống
tốt
thì
tôm
nuôi
vụ
đó
lớn
nhanh,
sức
chống
chịu
của
tôm
với
điều
kiện
môi
trường
tốt,
ít
dịch
bệnh,
khả
năng
thắng
lợi
vụ
đó
là
rất
cao.
Còn
không
may
chọn
phải
giống
kém
chất
lượng
thì
coi
như
vụ
đó
thất
bại.
Hiểu
rõ
tầm
quan
trọng
của
con
giống
nên
trong
Quy
hoạch
hệ
thống
nghiên
cứu,
sản
xuất
và
cung
ứng
giống
thủy
sản
đến
năm
2020,
Bộ
NN&PTNT
cũng
đã
nêu
rõ
định
hướng:
Thực
hiện
nghiên
cứu
phát
triển
giống
thủy
sản
nòng
cốt
là
các
viện
nghiên
cứu
nuôi
trồng
thủy
sản
thuộc
Bộ
NN&PTNT,
cùng
với
sự
tham
gia
chủ
động
của
các
doanh
nghiệp
thủy
sản,
các
trường
đào
tạo,
các
tổ
chức
nghiên
cứu
khoa
học
ngoài
ngành.
Phát
triển
hệ
thống
sản
xuất,
cung
ứng
giống
thủy
sản
nuôi
trồng
chủ
lực
ở
những
vùng
có
lợi
thế
tự
nhiên
và
vùng
nuôi
trồng
trọng
điểm
để
đảm
bảo
sản
xuất
đủ
giống
tốt,
giá
thành
hạ,
chủ
động
cung
cấp
tại
chỗ
cho
nuôi
trồng;
mục
tiêu
đến
năm
2020
đảm
bảo
chủ
động
cung
cấp
100%
nhu
cầu
giống,
trong
đó
75%
giống
các
đối
tượng
thủy
sản
nuôi
chủ
lực
là
chất
lượng,
sạch
bệnh.
Nỗ
lực
chủ
động
Bộ
NN&PTNT
xác
định
đối
tượng
nuôi
chủ
lực
trong
ngành
thủy
sản
gồm
tôm
sú,
TTCT,
tôm
càng
xanh,
cá
tra,
cá
rô
phi,
nhuyễn
thể.
Tuy
nhiên,
hiện
nay
sản
xuất
giống
trong
nước
mới
chỉ
đáp
ứng
được
một
phần
nhu
cầu,
còn
lại
vẫn
phải
nhập
khẩu.
Riêng
đối
với
tôm,
mỗi
năm
cần
130
tỷ
con
tôm
giống,
trong
đó
có
100
tỷ
con
TTCT
và
30
tỷ
con
tôm
sú
giống.
Để
đáp
ứng
nhu
cầu
này,
lượng
tôm
bố
mẹ
cần
để
sản
xuất
giống
là
230.000
con.
Hiện
tại,
nguồn
cung
tôm
bố
mẹ
cho
sản
xuất
tôm
giống
ở
nước
ta
gồm
ba
nguồn
chính
là
đánh
bắt
tự
nhiên,
sản
xuất
trong
nước
và
nhập
khẩu.
Với
tôm
sú
bố
mẹ,
sản
xuất
trong
nước
được
khoảng
8.000
-
10.000
con,
nhập
nội
khoảng
3.000
con,
còn
lại
là
khai
thác
từ
tự
nhiên.
Với
TTCT
bố
mẹ
gần
như
phải
nhập
khẩu
100%,
giá
50
-
100
USD/con.
Từ
năm
2013,
Bộ
NN&PTNT
đã
triển
khai
chương
trình
phát
triển
giống
TTCT
bố
mẹ
để
chủ
động
nguồn
cung
trong
nước.
Ngoài
ra,
các
doanh
nghiệp
tư
nhân
cũng
chú
ý
phát
triển
dòng
tôm
giống
bố
mẹå.
Năm
2016,
Tổng
cục
Thủy
sản
đã
công
nhận
giống
mới
đối
với
TTCT
thế
hệ
thứ
nhất
(G1)
do
Viện
Nghiên
cứu
Nuôi
trồng
Thủy
sản
I
thực
hiện
từ
năm
2012
-
2014;
giai
đoạn
2
do
Viện
Nghiên
cứu
Nuôi
trồng
Thủy
sản
II
thực
hiện
từ
năm
2014
-
2018.
Đáng
kể
hơn,
hiện
ngành
cũng
đã
làm
chủ
được
kỹ
thuật
sinh
sản
nhân
tạo
các
đối
tượng
cá
tra,
ngao,
cá
rô
phi…
Đối
với
ngao,
nguồn
cung
giống
ngoài
dựa
vào
tự
nhiên,
một
lượng
giống
được
phát
triển
sản
xuất
nhân
tạo.
Việt
Nam
đã
thương
mại
hóa
thành
công
giống
ngao
nhưng
vẫn
cần
phải
ổn
định
quy
trình.
Về
cá
tra,
cơ
bản
đã
đáp
ứng
đủ
số
lượng
phục
vụ
nhu
cầu
nuôi,
phấn
đấu
đến
năm
2020
sản
xuất
3,5
tỷ
con
giống.
Về
cá
rô
phi,
đây
là
mặt
hàng
đang
có
nhu
cầu
lớn,
hiện
khả
năng
cung
ứng
giống
trong
nước
được
80%,
20%
còn
lại
vẫn
phải
nhập
khẩu,
chủ
yếu
để
phục
vụ
cho
các
tỉnh
phía
Bắc.
Bộ
NN&PTNT
đã
đầu
tư
Trung
tâm
Nghiên
cứu
chọn
giống
và
sản
xuất
giống
rô
phi
tại
Quảng
Nam
nhằm
hướng
tới
lựa
chọn
và
lai
tạo
giống
lâu
dài.
>>
Theo
Quy
hoạch
hệ
thống
nghiên
cứu,
sản
xuất
và
cung
ứng
giống
thủy
sản
đến
năm
2020,
các
tổ
chức,
cá
nhân
đầu
tư
để
nghiên
cứu
và
sản
xuất
giống
thủy
sản
được
hưởng
các
chính
sách
(về
đất
đai
và
đầu
tư)
khuyến
khích
doanh
nghiệp
đầu
tư
vào
nông
nghiệp,
nông
thôn
theo
Nghị
định
số
61/2010/NĐ-CP;
Nghị
định
số
41/2010/NĐ-CP,
Nghị
định
số
75/2011/NĐ-CP,
Nghị
định
số
115/2008/NĐ-CP.
Thủy
sản
Việt
Nam