Giảm
tỷ
lệ
tỷ
vong
cho
tôm
thẻ
chân
trắng
nhiễm
Vibrio
nhờ
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ.
Vibrio spp.
là
một
trong
những
bệnh
vi
khuẩn
nghiêm
trọng
nhất
của
tôm
nuôi
với
tỷ
lệ
chết
lên
đến
100%.
Có
một
số
cách
kiểm
soát
bệnh Vibriosis như:
sử
dụng
kháng
sinh
hay
chế
phẩm
sinh
học.
Việc
sử
dụng
kháng
sinh
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
đã
mang
lại
những
tác
động
tiêu
cực
đến
sức
khỏe
con
người
và
môi
trường.
Hạn
chế
của
chế
phẩm
sinh
học
là
đôi
khi
gây
ra
các
phản
ứng
tiêu
cực
nếu
không
sử
dụng
đúng
cách,
cần
có
công
nghệ
tiên
tiến
để
sản
xuất
chế
phẩm
sinh
học
và
nó
vẫn
còn
là
thách
thức.
Chính
vì
thế
các
nghiên
cứu
đã
chỉ
ra
rằng
việc
sử
dụng
các
acid
hữu
cơ
như:
acid
formic
là
một
chất
diệt
khuẩn
hiệu
quả
đối
với Salmonella và
các
loài Vibrio khác
nhau,
bao
gồm: V.
harveyi,
V.
parahaemolyticus,
V.
vulnificus,
V.
alginolyticus và V.
cholerae.
Các
acid
hữu
cơ
có
thể
được
sử
dụng
như
chất
kích
thích
tăng
trưởng
trong
nuôi
trồng
thủy
sản,
hỗ
trợ
ức
chế
mầm
bệnh
trong
đường
ruột
và
cải
thiện
khả
năng
tiêu
hóa
của
các
chất
dinh
dưỡng
như
nitơ
và
phốt
pho
trong
thức
ăn.
Các
acid
hữu
cơ
và
muối
của
chúng
cũng
có
thể
góp
phần
tăng
giá
trị
dinh
dưỡng
trong
thức
ăn,
vì
chúng
là
thành
phần
trong
một
số
con
đường
trao
đổi
chất
để
tạo
năng
lượng
như
tạo
ATP
trong
chu
trình
citric
acid
hoặc
chu
trình
carboxylic-acids.
Nghiên
cứu
được
tiến
hành
với
3
nhóm
nghiệm
thức
và
nhóm
đối
chứng:
-
Nhóm
nghiệm
thức
thứ
nhất G1 hỗn
hợp:
46%
acid
lactic,
18%
acid
fomic,
18%
acid
citric
và
18%
acid
sorbic.
-
Nhóm
nghiệm
thức
thứ
hai G2:
40%
acid
xitric,
40%
acid
fumaric
và
20%
acid
sorbic.
-
Nhóm
nghiệm
thức
thứ
ba G3:
100%
acid
fomic.
Kết
quả
phân
tích
vi
sinh
của
thức
ăn
bổ
sung
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
cho
thấy
các
thông
số
vi
sinh
tương
tự
nhau
ở
tất
cả
các
nghiệm
thức:
vi
khuẩn
hiếu
khí
1x100 cfu/g,
nấm
men
và
nấm
mốc
giá
trị
<1x101 UP/g.
Chế
độ
ăn
với
muối
của
acid
hữu
cơ
đã
cải
thiện
sự
ép
đùn
thức
ăn,
tăng
độ
ổn
định
và
giảm
sự
giãn
nở
của
viên
thức
ăn.
Việc
sử
dụng
các
acid
hữu
cơ
(acid
citric
và
lactic)
có
tác
dụng
tăng
độ
hấp
dẫn
và
ngon
miệng
cho
tôm.
Mười
con
tôm
(8g)
có
các
triệu
chứng
lâm
sàng
của
bệnh Vibriosis được
tiến
hành
thí
nghiệm
với
3
nghiệm
thức
(G1,
G2,
G3)
được
điều
trị
bằng
acid
hữu
cơ.
Nhóm
đối
chứng
với
10
con
tôm
(8g)
có
biểu
hiện
bệnh Vibriosis không
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ.
Kết
quả
cho
thấy
nghiệm
thức
đối
chứng
có
tỷ
lệ
chết
cao
nhất
50%
trong
khi
tôm
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
nhóm
G1
tỷ
lệ
chết
thấp
nhất
10%.
Tôm
thẻ
chân
trắng
sau
khi
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
ở
nhóm G1
có
chỉ
số
sống
sót
cao
nhất
là
80%,
trong
khi
tôm
ở
nhóm
đối
chứng
có
chỉ
số
sống
sót
thấp
nhất.
Nghiên
cứu
này
đã
chứng
minh
các
acid
hữu
cơ
như:
acid
axetic,
butyric,
propionic,
acid
formic
và
valeric
có
thể
được
sử
dụng
để
ức
chế
sự
phát
triển
của Vibrios.
Tôm
thẻ
chân
trắng
(4
con
sống)
ở
nghiệm
thức G1
có
trọng
lượng
cao
nhất
51g,
trong
khi
4
con
tôm
sống
nhóm
đối
chứng
có
trọng
lượng
thấp
nhất
là
43g.
Tôm
nhiễm Vibrios sau
khi
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
ở
nghiệm
thức
G1
không
cho
thấy
sự
hiện
diện
của Vibriosis.
Việc
ăn
thức
ăn
có
tẩm
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
giúp
phục
hồi
hoàn
toàn
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
ở
tôm
bị
nhiễm
các
loài Vibrio.
Sự
thành
công
của
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
G1
có
thể
là
do
phổ
kháng
khuẩn
rộng
của
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ.
Mỗi
acid
hữu
cơ
có
phổ
hoạt
động
kháng
khuẩn
riêng
do
tính
chất
vật
lý
và
hóa
học
cụ
thể
của
chúng.
Do
đó,
lợi
thế
của
việc
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
là
có
thể
có
phổ
hoạt
động
kháng
khuẩn
rộng
hơn
chống
lại
nhiều
loại
vi
khuẩn
gây
bệnh
hơn
và
có
tác
dụng
hiệp
đồng
tiềm
năng
đối
với
hiệu
suất
tăng
trưởng
và
sử
dụng
chất
dinh
dưỡng.
Hơn
nữa,
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
có
thể
cho
phép
giảm
thêm
liều
lượng
sử
dụng
trong
thức
ăn
do
đó
giảm
chi
phí.
Tóm
lại,
việc
sử
dụng
hỗn
hợp
acid
hữu
cơ
nhóm G1:
46%
acid
lactic,
18%
acid
fomic,
18%
acid
citric
và
18%
acid
sorbic trong
thức
ăn
đã
kiểm
soát
lượng
vi
khuẩn
Vibrio,
giảm
tỷ
lệ
chết
và
cải
thiện
sự
tăng
trưởng
của
tôm
thẻ
chân
trắng.