Với
đòi
hỏi
từ
nhu
cầu
của
thị
trường,
hầu
hết
người
sản
xuất
đều
muốn
tạo
sản
phẩm
sạch,
sản
xuất
theo
tiêu
chuẩn
chất
lượng
nghĩa
là
sản
xuất
theo
hướng
VietGAP;
tuy
nhiên,
để
phát
triển
đại
trà
thì
chưa
thực
sự
dễ
dàng.
Hiệu
quả
các
mô
hình
Năm
2014,
một
trong
những
hoạt
động
mà
Trung
tâm
Khuyến
nông
Quốc
gia
triển
khai
có
hiệu
quả
đó
là
việc
hối
hợp
các
đơn
vị
xây
dựng
8
mô
hình
tôm
thẻ
chân
trắng
(TTCT)
thuộc
8
tỉnh
Quảng
Ninh,
Hải
Phòng,
Nghệ
An,
Hà
Tĩnh,
Khánh
Hòa,
Ninh
Thuận,
Kiên
Giang,
Sóc
Trăng;
xây
dựng
2
mô
hình
nuôi
tôm
sú
theo
VietGAP
thuộc
các
tỉnh
Bạc
Liêu,
Sóc
Trăng.
Kết
quả,
100%
mô
hình
đều
đạt
trên
80%
theo
tiêu
chí
VietGAP,
đạt
100%
so
kế
hoạch.
Mô
hình
nuôi
TTCT,
sản
lượng
tôm
thu
hoạch
đạt
trung
bình
4,1
tấn/0,4
ha,
các
hộ
nuôi
thu
lãi
200
-
250
triệu
đồng.
Tiền
lãi
có
được
nhờ
nông
dân
tiết
kiệm
được
chi
phí
thuốc,
hóa
chất,
kháng
sinh,
thức
ăn;
tỷ
lệ
tôm
sống
cao,
hạn
chế
dịch
bệnh
dịch
nên
lợi
nhuận
cao
hơn.
Chương
trình
khuyến
nông
này
còn
tiếp
tục
trong
năm
2015,
trên
cả
nuôi
tôm
sú,
TTCT;
triển
khai
trên
diện
rộng,
tại
các
tỉnh
như:
Quảng
Ninh,
Thanh
Hóa,
Hà
Tĩnh,
Thừa
Thiên
-
Huế,
Khánh
Hòa,
Long
An,
Tiền
Giang,
Kiên
Giang,
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Cà
Mau.
Nhận
rộng
khó
Theo
các
cán
bộ
khuyến
nông
các
tỉnh
miền
Trung,
để
thực
hiện
việc
nuôi
trồng
theo
VietGAP,
điều
cần
đầu
tiên
là
dân
trí
phải
cao;
bởi,
việc
theo
dõi
nuôi
trồng
theo
các
tiêu
chí
đòi
hỏi
người
nuôi
phải
có
hiểu
biết
về
quản
lý
hồ
sơ,
ghi
chép
biểu
mẫu.
Người
dân
miền
Trung
điều
kiện
học
hành
còn
hạn
chế,
việc
nuôi
tôm
còn
mới
mẻ.
Người
dân
thường
e
ngại
tham
gia
nuôi
theo
VietGAP,
trước
hết
là
ngại
phông
văn
hóa
của
mình
chưa
đủ.
Chưa
kể
nhân
lực
ngày
càng
khan
hiếm
và
nhiều
hộ
phải
thuê
người
làm
với
trình
độ
văn
hóa
thấp.
Tôm
nuôi
theo
VietGAP
vẫn
chưa
có
chỗ
đứng
trên
thị
trường
-
Ảnh:
Diệu
Lữ
Mặt
khác,
vấn
đề
mà
các
cơ
sở
lo
ngại
hơn
cả
là
quy
hoạch.
Theo
yêu
cầu,
địa
điểm
ao
nuôi
tôm
theo
quy
trình
VietGAP
phải
có
hệ
thống
cấp,
thoát
nước
riêng
biệt;
ao
lắng,
ao
chứa,
ao
nuôi
không
rò
rỉ;
riêng
ao
lắng
tối
thiểu
phải
chiếm
15
-
20%
diện
tích
mặt
bằng,
nhằm
xử
lý
nước
và
diệt
tạp
trước
khi
thả
giống
nuôi.
Đây
là
khó
khăn
không
nhỏ
đối
với
các
tỉnh
phía
Bắc,
nơi
diện
tích
canh
tác
nhỏ
hẹp.
Việc
làm
ao
lắng,
áo
chứa
không
phải
gia
đình
nào
cũng
đáp
ứng
được.
Trong
khi,
tại
các
tỉnh
phía
Nam,
nơi
đất
đai
rộng
rãi,
thì
hệ
thống
xử
lý
chất
thải
đang
là
vấn
đề
lớn.
Chưa
kể
nguồn
nước
thải
nông
nghiệp,
công
nghiệp…
ngày
càng
áp
sát
vùng
nuôi
tôm.
Do
đặc
thù
vùng
đất
trũng
nên
việc
tiêu
thoát
nước
thải
từ
các
vùng
nuôi
tôm
gặp
khó
khăn,
chưa
kể
việc
xen
giữa
trồng
trọt
và
nuôi
trồng
cũng
ẩn
chứa
nhiều
mối
nguy
ô
nhiễm.
Để
bền
vững
và
hiệu
quả
Các
hộ
nông
dân
tiếp
xúc
với
chúng
tôi
đều
cho
biết:
VietGAP
dù
khó
đến
mấy
mà
tôm
bán
được
giá,
có
lãi
thì
người
dân
cũng
làm.
Hiện,
sản
lượng
quá
ít,
lại
không
liên
kết
được
với
các
công
ty
tiêu
thụ
nên
tôm
VietGAP
vẫn
chưa
biết
bán
đi
đâu.
Tại
các
tỉnh
phía
Nam,
việc
thu
mua
vẫn
phụ
thuộc
thương
lái;
thương
lái
không
muốn
đẩy
giá
tôm
lên
cao
nên
dĩ
nhiên
họ
không
mặn
mà
với
tôm
VietGAP.
Do
đó,
việc
tiêu
thụ
tôm
“sạch”
này
cần
phải
theo
quy
trình
khép
kín
từ
sản
xuất
đến
tiêu
thụ
thì
các
mô
hình
mới
tồn
tại
bền
vững
và
nhân
rộng
theo
thời
gian.
Một
số
người
dân
cũng
cho
rằng,
việc
quy
hoạch
và
đầu
tư
vào
cơ
sở
hạ
tầng
thật
ra
không
quá
lớn.
Sở
dĩ
người
dân
đầu
tư
manh
mún
là
do
thiếu
sự
tổ
chức
đồng
bộ,
nghĩa
là
từng
hộ,
từng
vùng
người
dân
vẫn
đầu
tư
vào
đồng
ruộng
của
mình,
nhưng
sự
liên
kết
giữa
các
hộ,
các
vùng
hầu
như
không
có.
Do
vậy,
người
dân
không
muốn
đầu
tư,
vì
không
hiệu
quả.
Nếu
người
dân
thấy
việc
nuôi
trồng
tôm
VietGAP
thực
sự
có
lãi
và
ổn
định
thì
họ
sẽ
vay
mượn,
huy
động
vốn
để
đầu
tư
lớn
hơn
hiện
nay
nhiều.
Đó
là
chia
sẻ
của
nhiều
chủ
đầm
tôm.
Chỉ
mới
vài
năm
gần
đây
tôm
thực
sự
qua
được
“đại
dịch”
và
có
lãi,
nên
việc
đầu
tư
còn
dè
dặt.
Chưa
kể
do
thiếu
sự
đồng
bộ
và
thiếu
mối
liên
kết
nên
việc
đầu
tư
trở
nên
manh
mún.
Một
lý
do
khác
không
thể
không
nhắc
tới
là
tính
quốc
tế
của
VietGAP
đến
đâu.
Tôm
Việt
Nam
chủ
yếu
xuất
khẩu;
bởi
vậy
việc
quảng
bá
và
thừa
nhận
của
quốc
tế
sẽ
giúp
giá
trị
con
tôm
VietGAP
tăng
lên,
người
dân
mới
toàn
tâm
toàn
ý
vào
VietGAP
bên
cạnh
những
tiêu
chuẩn
khác
như
BAP,
GlobalGAP,
ASC...
Dù
đã
thành
công
với
nhiều
mô
hình
VietGAP
trong
năm
qua,
nhưng
để
nhân
rộng,
cần
phải
có
sự
quyết
liệt
của
nhiều
bộ
ban
ngành,
tạo
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
sản
xuất
và
tiêu
thụ
tôm
VietGAP;
Bởi,
người
nông
dân
không
muốn
nhìn
thấy
cảnh
tôm
“sạch”
của
mình
trở
thành
“hẩm
hiu”
trong
mắt
thương
lái
với
giá
cả
bèo
bọt.
Giá
trị
của
tôm
VietGAP
phải
được
nhìn
nhận
và
khẳng
định
từ
các
nhà
máy,
từ
thị
trường
trong
nước
và
quốc
tế.
Mặt
khác,
khi
mô
hình
không
được
nhận
rộng
thì
chi
phí
nuôi
tôm
VietGAP
sẽ
cao
hơn
mức
bình
thường;
và
khi
sản
lượng
còn
quá
thấp
không
đủ
tạo
sức
ép
về
giá,
sức
hấp
dẫn
trên
thị
trường
không
lớn.
Do
đó,
chương
trình
nuôi
tôm
VietGAP
chỉ
thực
sự
hiệu
quả
khi
nó
được
nhân
rộng
và
trở
nên
phổ
biến
trên
toàn
quốc.
>>
Hiệu
quả
mô
hình
nuôi
tôm
VietGAP
đã
được
chứng
minh.
Người
nuôi
không
bị
“ném
tiền
qua
cửa
sổ”
do
mua
phải
giống
kém
chất
lượng,
chăm
sóc
không
đúng
cách
và
lãng
phí
thức
ăn
cũng
như
bị
dịch
bệnh.
Bài
toán
ở
đây
chỉ
là
vấn
đề
nhân
rộng
nuôi
trồng
theo
VietGAP
thế
nào.
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam