Năm
2015
là
năm
đầy
khó
khăn
với
ngành
thủy
sản,
đặc
biệt
là
ngành
tôm
do
những
tác
động
của
biến
động
tỷ
giá,
tình
trạng
hạn
hán,
xâm
nhập
mặn…
Tuy
vậy,
khó
khăn
cũng
còn
bắt
nguồn
từ
chính
những
yếu
kém
nội
tại
của
ngành,
cần
phải
có
hướng
tháo
gõ
trong
thời
gian
tới.
Tình
trạng
kháng
sinh,
tạp
chất
tràn
lan
Theo
báo
cáo
của
Hiệp
hội
chế
biến
và
xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(Vasep),
sau
thời
kỳ
hoàng
kim
năm
2014,
bước
sang
năm
2015,
kim
ngạch
và
sản
lượng
xuất
khẩu
tôm
đã
giảm
rất
mạnh.
Tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu
tôm
năm
2015
đạt
gần
3
tỉ
đô
la
Mỹ,
giảm
tới
25%
so
với
năm
2014.
Xuất
khẩu
tôm
sang
các
thị
trường
chính
đều
giảm
mạnh,
như
Mỹ
(giảm
38%),
EU
(giảm
19%),
Nhật
Bản
(giảm
21%),
Trung
Quốc
(giảm
15%).
Theo
giải
thích
của
bà
Lê
Hằng,
Phó
giám
đốc
Trung
tâm
Vaseppro
(Vasep),
xuất
khẩu
thủy
sản,
trong
đó
có
xuất
khẩu
tôm
gặp
phải
hai
"cơn
lốc"
lớn
trong
năm
2015.
Thứ
nhất
là
các
nước
đối
thủ
cạnh
tranh
liên
tục
phá
giá
đồng
nội
tệ
khiến
tôm
Việt
Nam
giảm
sức
cạnh
tranh.
Thứ
hai
là
cơn
lốc
giảm
giá
thủy
sản.
Ví
dụ,
năm
2015
tôm
sú
cỡ
16/20
của
Việt
Nam
đã
giảm
14%,
từ
11,3
đô
la
Mỹ
xuống
còn
9,75
đô
la
Mỹ/pound;
tôm
sú
vỏ
cỡ
21/25
giảm
gần
30%
từ
7,5
đô
la
Mỹ
xuống
còn
5,8
đô
la
Mỹ.
Bên
cạnh
những
yếu
tố
vĩ
mô
mà
bà
Hằng
đưa
ra,
theo
ông
Lê
Văn
Quang,
Chủ
tịch
Hội
đồng
quản
trị,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Tập
đoàn
thủy
sản
Minh
Phú,
xuất
khẩu
năm
2015
gặp
khó
còn
nằm
chính
ở
những
bất
cập
nội
tại
của
ngành.
Hiện
nay,
giá
thành
nuôi
tôm
tại
Việt
Nam
đang
rất
cao,
trong
khi
các
nước
đối
thủ
như
Ấn
Độ
và
Indonesia
đang
có
những
lợi
thế
vượt
trội
khi
tìm
được
phương
pháp
nuôi
tôm
giá
rẻ,
chất
lượng
tốt.
Ngoài
giá
thành
cao,
ngành
tôm
cũng
đang
bộc
lộ
điểm
yếu
khi
tỷ
lệ
tôm
nhiễm
kháng
sinh
và
vi
sinh
còn
rất
cao,
đặc
biệt
là
việc
bơm
trích
tạp
chất
và
nạn
cắm
tăm
tre,
tăm
dừa
vào
tôm.
“Vừa
rồi,
tôi
đi
công
tác
ở
Nhật,
khách
hàng
cho
biết
vì
tình
trạng
bơm
trích
tạp
chất,
cắm
tăm
tre,
tăm
dừa
vào
tôm
nên
họ
không
mua
tôm
sú
của
Việt
Nam
nữa
mà
chuyển
sang
mua
của
Philippines
và
Indoenseia”,
ông
Quang
nói
và
cho
biết
thêm,
khách
hàng
Nhật
nói
nếu
đảm
bảo
100%
tôm
không
bị
dính
tạp
chất,
họ
sẽ
mua
nhưng
việc
này
là
rất
khó.
Hiện
nay,
tôm
sú
Việt
Nam
nuôi
theo
hình
thức
quảng
canh
nên
sản
lượng
rất
thấp,
gom
nhiều
hộ
mới
được
vài
chục
ký
để
chế
biến.
Nếu
phải
kiểm
soát
tới
từng
hộ
nuôi
tôm
thực
sự
là
một
bài
toàn
khó.
Hơn
nữa,
dù
Minh
Phú
đã
mua
rất
nhiều
máy
móc
hiện
đại
để
kiểm
soát
kháng
sinh,
tạp
chất
mà
nhiều
khi
hàng
vẫn
bị
nhiễm
kháng
sinh,
không
hiểu
ở
đâu
ra.
Hiện
tại
lượng
tôm
sú
tồn
kho
trong
các
nhà
máy
rất
nhiều
nên
sang
quí
1-2016,
các
nhà
máy
chỉ
sản
xuất
cầm
chừng,
có
nhà
máy
chỉ
sản
xuất
chừng
30%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái,
có
nhà
máy
được
50%.
Đồng
thời,
diện
tích
thả
giống
của
các
hộ
dân
từ
đầu
năm
tới
giờ
cũng
rất
thấp,
chỉ
20%
diện
tích,
còn
lại
80%
là
treo
ao.
Bên
cạnh
những
khó
khăn
trước
mắt,
ngành
tôm
còn
gặp
những
khó
khăn
mang
tính
hệ
thống
như
chưa
có
quy
hoạch
các
vùng
nuôi
tôm
quy
mô
lớn;
chưa
có
quy
trình
nuôi,
công
nghệ
nuôi
tốt;
hệ
thống
cơ
sở
hạ
tầng
phục
vụ
ngành
tôm
còn
hạn
chế;
chưa
có
trung
tâm
nghiên
cứu,
gia
hóa,
chọn
giống
tôm
bố
mẹ
và
cũng
chưa
có
nơi
sản
xuất
tôm
giống
bố
mẹ
có
đặc
tính
sinh
học
tốt,
vượt
trội;
thức
ăn
tôm
của
Việt
Nam
gần
như
toàn
bộ
do
các
công
ty
nước
ngoài
sản
xuất
nên
họ
độc
quyền,
thao
túng…
Hướng
đi
nào?
Để
giải
quyết
được
vấn
đề
của
ngành
tôm,
theo
các
chuyên
gia,
Chính
phủ
cần
phải
xác
định
lại
vị
thế
ngành
xuất
khẩu
tôm
để
có
sự
đầu
tư
và
quan
tâm
đúng
mức.
Phải
định
vị
rõ
ràng
sản
phẩm
tôm
Việt
Nam
trên
thương
trường
thế
giới
với
mức
độ
cạnh
tranh
ngày
càng
gay
gắt
để
từ
đó
xác
định
được
chiến
lược
quy
hoạch,
đầu
tư
và
có
chính
sách
khuyến
khích
phù
hợp.
Theo
đó,
Chính
phủ
và
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
(NNPT&NT)
cần
có
các
chương
trình
cụ
thể
nhằm
nâng
cao
nhận
thức
về
tôm
sạch
(không
kháng
sinh)
cho
người
nuôi,
nậu
vựa,
cơ
sở
sơ
chế,
nhà
máy
chế
biến
để
có
nguyên
liệu
tôm
không
kháng
sinh,
không
tạp
chất.
Ông
Quang
cho
hay,
để
cứu
ngành
tôm
Việt
Nam,
quan
trọng
nhất
là
phải
thành
lập
được
chuỗi
giá
trị
có
trách
nhiệm,
tức
tất
cả
mọi
người
trong
chuỗi
cung
ứng
tôm
phải
có
trách
nhiệm
với
công
việc
của
mình
và
được
hưởng
lợi
từ
trách
nhiệm
đó.
Không
thể
vì
lợi
ích
trước
mắt
mà
hủy
hoại
cả
một
ngành
tôm.
Bên
cạnh
đó,
cần
đầu
tư
nghiên
cứu
các
mô
hình
nuôi
bền
vững
để
ổn
định
và
tăng
trưởng
sản
lượng
phù
hợp
với
điều
kiện
môi
trường
ngày
càng
khắc
nghiệt.
Ông
Quang
đề
xuất
nên
áp
dụng
mô
hình
nuôi
tôm
của
Ecuador,
tức
nuôi
tôm
kháng
bệnh
và
nuôi
ở
mật
độ
thấp,
vừa
sức
tải
môi
trường
mà
lại
tận
dụng
được
nguồn
năng
lượng
tự
nhiên
như
thủy
triều,
sức
gió.
Do
đó,
mặc
dù
Ecuador
nuôi
với
mật
độ
thấp
nhưng
lại
cho
năng
suất
cao
hơn
so
với
việc
nuôi
tôm
mật
độ
cao
ở
Việt
Nam.
Đồng
thời,
giá
thành
sản
xuất
tôm
của
Ecuador
chỉ
khoảng
50.000
đồng/kg,
trong
khi
của
Việt
Nam
hiện
nay
là
100.000
đồng/kg
Do
đó,
Chính
phủ
và
Bộ
NNPT&NT
cần
quy
hoạch
các
khu
nuôi
tôm
có
diện
tích
1.000-5.000
héc
ta
cho
mỗi
khu
và
mỗi
vùng
có
2-5
khu
như
vậy,
tạo
cơ
chế
ưu
đãi
(về
thuế,
vay
vốn,…)
có
kênh
cấp,
thoát
nước
riêng,
có
nguồn
nước
sạch
và
nước
đá
đạt
tiêu
chuẩn
cho
thu
hoạch,
bảo
quản
tôm;
có
đường
giao
thông
để
xe
10-20
tấn
vào
được…
Theo
phân
tích
về
triển
vọng
thị
trường
tôm
năm
2016
của
Viện
chính
sách
và
chiến
lược
phát
triển
nông
nghiệp-nông
thôn
(Ipsard),
giá
tôm
đã
chạm
đáy
và
có
xu
hướng
đi
ngang
trong
năm
2016.
Bên
cạnh
đó,
Ipsard
còn
cung
cấp
một
số
thông
tin
theo
chiều
hướng
có
lợi
cho
tôm
Việt
Nam
như
Mỹ
tăng
thuế
chống
bán
phá
giá
tôm
Ấn
Độ
và
nguồn
cung
tôm
Ấn
Độ
giảm;
uy
tín
của
ngành
tôm
Thái
Lan
đang
giảm.
Tuy
nhiên,
xâm
nhập
mặn
lại
đang
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
sản
xuất
tôm
Việt
Nam.
TBKTSG
Online