Hàng
loạt
thử
nghiệm
đã
chứng
tỏ
phụ
gia
thức
ăn
Me-pro
tạo
khả
năng
đối
kháng
tốt
cho
TTCT
trước
các
chủng
vi
khuẩn
Vibrio
–
tác
nhân
gây
bệnh
AHPND
trên
tôm.
Giảm
số
lượng
vi
khuẩn
Năm
2017,
AHPND
xuất
hiện
ở
Ecuador
với
lượng
vi
khuẩn
V.parahaemolyticus
và
V.vulnificus
được
ghi
nhận
3×104 cfu/g
cùng
tỷ
lệ
chết
100%
trong
các
bể
nuôi
ấu
trùng.
Dịch
bệnh
ảnh
hưởng
đến
ấu
trùng
ở
giai
đoạn
đầu
với
tỷ
lệ
chết
100%,
trong
khi
tỷ
lệ
chết
ở
tôm
giống
là
30
–
40%
trong
20
ngày
thả
nuôi
đầu
tiên.
Các
nghiên
cứu
gần
đây
trong
hệ
thống
nuôi
tôm
sử
dụng
protein
tăng
cường
vi
khuẩn
(Me-pro)
của
hãng
Prairie
Aquatech,
South
Dakota,
Mỹ
đã
chứng
minh,
đây
không
chỉ
là
một
giải
pháp
tiềm
năng
giúp
tạo
ra
thức
ăn
thủy
sản
thân
thiện
sinh
thái,
mà
còn
ức
chế
khả
năng
phát
triển
của
vi
khuẩn
Vibrio.
Protein
này
được
sản
xuất
tại
nhà
máy
công
nghệ
hiện
đại,
từ
nguyên
liệu
khô
dầu
đậu
tương
không
biến
đổi
gen
và
nấm
tự
nhiên
không
độc
hại
(Aureobasidium
pullulans).
Phụ
phẩm
sau
khi
được
lên
men
còn
chứa
một
lượng
đáng
kể
các
peptide
chuỗi
ngắn
và
axit
amin
tự
do,
với
những
đặc
tính
dẫn
dụ
thức
ăn
và
kích
thích
tính
thèm
ăn
rất
hiệu
quả
ở
vật
nuôi.
Kết
quả
từ
nhiều
thử
nghiệm
cho
thấy
Me-pro
đã
duy
trì
sức
khỏe
của
tôm,
đồng
thời
nâng
cao
hiệu
suất
tăng
trưởng
và
hiệu
quả
cho
ăn,
với
tỷ
lệ
bổ
sung
chỉ
bằng
một
nửa
tổng
khối
lượng
các
thành
phần
trong
thức
ăn.
Nghiên
cứu
về
Me-pro
tại
Ecuador
nhằm
đánh
giá
khả
năng
ức
chế
vi
khuẩn
Vibrio
spp
của
phụ
gia
này
ở
các
liều
bổ
sung
khác
nhau
(0,5%,
1%
và
2%).
Nghiên
cứu
được
thực
hiện
tại
phòng
thí
nghiệm
sinh
học
và
phân
tử
sinh
học,
Qsbiotech
ở
La
Libertad,
tỉnh
Santa
Elena
thuộc
Ecuador
với
vi
khuẩn
Vibrio
được
lấy
từ
ruột
TTCT.
Xây
dựng
nghiên
cứu
Để
phân
tích
tổng
số
Vibrio,
chuẩn
bị
môi
trường
phân
lập
chọn
lọc
thiosulfate
citrate
bile
sucrose
(TBCS,
Difco),
bổ
sung
2%
Natri
clorua
và
ủ
ở
nhiệt
độ
35°C
trong
24
giờ.
Độ
pH
của
một
lít
dung
dịch
được
điều
chỉnh
lên
8,6
và
đun
nóng
đến
khi
sôi
bằng
cách
khuấy
liên
tục
suốt
2
phút.
Sau
đó,
đặt
dung
dịch
lên
các
đĩa
vô
trùng
và
bảo
quản
ở
nhiệt
độ
2
–
8°C
đến
khi
sử
dụng.
Môi
trường
ChromAgar
được
sử
dụng
để
phân
lập
vi
khuẩn
V.parahaemolyticus
và
V.vulnificus:
Hòa
bột
agar
(74,4
g)
tan
trong
1
lít
nước
cất
thành
dung
dịch
đồng
nhất
và
đun
sôi
ở
100°C.
Để
phân
lập,
sử
dụng
các
chủng
probitocis,
môi
trường
TSA
(Difco):
Hòa
tan
bột
agar
(40
g)
trong
1
lít
nước
cất
tạo
thành
dung
dịch
đồng
nhất
trong
2
phút
và
đặt
lên
đĩa
để
chưng
cất
ở
121°C
trong
15
phút.
Môi
trường
(trypticase
soy
broth,
Difco)
được
sử
dụng
để
phân
lập
các
chủng
vi
khuẩn
V.paraheaemolyticus,
V.vulnificus
và
nhiều
probiotics
thương
mại.
Hòa
tan
bột
agar
(30
g)
trong
1
lít
nước
cất
thành
dung
dịch
đồng
nhất
suốt
2
phút,
đặt
lên
đĩa
để
chưng
cất
ở
121°C
trong
15
phút.
Mẫu
phụ
Me-pro
lơ
lửng
trở
lại
trong
nước
cất
ở
liều
thử
nghiệm
0,5%;
1%
và
2%
và
được
bổ
sung
vào
tất
cả
môi
trường
thạch
ở
3
nồng
độ,
nhằm
đánh
giá
khả
năng
đối
kháng
V.parahaemolyticus.
Chiết
xuất
DNA
và
các
quy
trình
đánh
giá
được
hoàn
tất
bằng
kỹ
thuật
PCR.
Khả
năng
ức
chế
vi
khuẩn
Các
kết
quả
cho
thấy,
ở
tỷ
lệ
bổ
sung
0,5%;
1%
và
2%,
Me-pro
có
khả
năng
ức
chế
vi
khuẩn
Vibrio
trong
môi
trường
ChromAgar
Vibrio
và
TCBS.
Kết
hợp
Me-pro
trong
môi
trường
TCBS
và
ChromAgar
cho
thấy
kết
quả
về
hoạt
tính
ức
chế
Vibrio
type
1
(màu
vàng)
lần
lượt
là
38%,
48%
và
57%.
Với
type
2
Vibrio,
tỷ
lệ
ức
chế
là
78%
và
100%
với
liều
bổ
sung
1%,
2%
và
khả
năng
ức
chế
V.parahaemolyticus
lần
lượt
là
38%,
45%
và
62%.
Trong
môi
trường
ChromAGar,
Me-pro
làm
giảm
số
lượng
vi
khuẩn
V.parahaemolytics
ở
liều
bổ
sung
0,5%.
Ba
chủng
Vibrio
là
tác
nhân
gây
ra
EMS,
được
phân
lập
từ
các
mẫu
ấu
trùng,
nuôi
trong
môi
trường
thạch
ChromAgar
và
TCBS
và
được
thử
nghiệm
bằng
PCR.
Cấy
V.parahaemolyticus
(VP
AHPND)
vào
môi
trường
TSB
dung
dịch
đồng
thời
bổ
sung
Me-pro
1%
và
2%.
Kết
quả
chỉ
ra,
Me-pro
1%
và
2%
làm
giảm
40%
tốc
độ
tăng
trưởng
của
vi
khuẩn
trong
6
giờ
đầu
tiên.
Các
chủng
V.vulnificus
được
phân
lập
từ
các
mẫu
tôm
có
dấu
hiệu
dịch
bệnh
và
được
sử
dụng
trong
thử
nghiệm
này.
Tại
Ecuador,
số
lượng
vi
khuẩn
V.parahaemolyticus
và
V.vulnificus
ở
mức
độ
104
cfu/g
gây
tỷ
lệ
chết
cao.
Tuy
nhiên,
với
Me-pro
10%
có
thể
tác
động
mạnh
mẽ
đến
tốc
độ
tăng
trưởng
của
V.vulnificus
và
làm
giảm
72%
số
lượng
vi
khuẩn
này
chỉ
trong
18
giờ.
Với
tỷ
lệ
bổ
sung
Me-pro
15%,
tốc
độ
tăng
trưởng
của
V.parahaemolyticus
đã
giảm
đáng
kể
63%.
>>
Me-pro
là
thành
phần
thức
ăn
cho
tất
cả
các
loại
tôm,
cá.
Do
hàm
lượng
phytate
thấp
và
90%
phốt
pho
trong
sản
phẩm
này
đều
được
vật
nuôi
tiêu
thụ;
nên
bổ
sung
Me-pro
còn
làm
giảm
lượng
phốt
pho
xả
vào
nước
qua
chất
thải
của
tôm,
cá.
Me-pro
đã
được
châu
Âu
cho
phép
sử
dụng
trong
thức
ăn
thủy
sản
từ
năm
2019.