Các
khẩu
phần
được
bổ
sung
protein
từ
tôm
và
mực
đã
thúc
đẩy
lượng
thức
ăn
nạp
vào
và
cải
thiện
khả
năng
kháng
ôxy
hóa
của
TTCT
giống.
Một
khẩu
phần
chứa
các
chất
dẫn
dụ
tốt
có
thể
cải
thiện
hiệu
suất
tăng
trưởng
và
khả
năng
sử
dụng
thức
ăn
của
vật
nuôi.
Các
chất
dẫn
dụ
được
chia
thành
hai
loại:
tự
nhiên
và
tổng
hợp.
Một
số
chất
dẫn
dụ
thức
ăn
rất
giàu
chất
dinh
dưỡng
như
nucleotide,
peptide
nhỏ
và
axit
amin,
không
chỉ
thúc
đẩy
tốc
độ
tăng
trưởng
của
vật
nuôi
mà
còn
cải
thiện
đề
kháng.
Sự
kết
hợp
nhiều
chất
dẫn
dụ
trong
thức
ăn
của
TTCT
có
thể
khắc
phục
được
nhược
điểm
của
chúng
khi
sử
dụng
đơn
lẻ.
Chiết
xuất
nấm
men,
bột
nội
tạng
mực,
bột
tôm
nhão
và
dịch
cá
là
các
loại
chất
dẫn
dụ
thức
ăn
thủy
sản
khá
phổ
biến.
Tuy
nhiên,
đến
nay
vẫn
có
rất
ít
nghiên
cứu
về
hiệu
lực
của
hỗn
hợp
các
chất
dẫn
dụ
này
đối
với
cơ
chế
tăng
trưởng
và
sức
khỏe
của
vật
nuôi.
Xây
dựng
nghiên
cứu
Để
đánh
giá
hiệu
lực
của
hỗn
hợp
chất
dẫn
dụ
với
hiệu
suất
tăng
trưởng,
khả
năng
sử
dụng
thức
ăn,
hình
thái
đường
ruột,
tổng
hợp
protein
và
đáp
ứng
miễn
dịch
của
TTCT,
nhóm
chuyên
gia
tại
Đại
học
Hải
dương
Quảng
Đông
thuộc
Trạm
Giang,
Trung
Quốc
đã
sử
dụng
7
khẩu
phần
ăn:
đối
chứng
dương
(P),
đối
chứng
âm
(N)
và
5
khẩu
phần
bổ
sung
hỗn
hợp
chất
dẫn
dụ
được
ký
hiệu
A,
B,
C,
D
và
E
tương
ứng
với
chiết
xuất
nấm
men,
bột
nội
tạng
mực,
dịch
cá,
bột
mực
nhão
và
bột
tôm
nhão.
Nguồn
TTCT
giống
do
Công
ty
Guangdong
Hengxing
thuộc
tỉnh
Trạm
Giang,
Trung
Quốc
cung
cấp.
Cho
tôm
làm
quen
với
môi
trường
thử
nghiệm
trong
một
tuần.
Sau
đó
chia
840
con
tôm
giống
khỏe
mạnh
và
kích
thước
đồng
đều
(trọng
lượng
thân
0,71
g)
thành
7
nhóm
và
thả
nuôi
trong
các
bể
300
lít
với
mật
độ
30
con/bể.
Mỗi
nghiệm
thức
lặp
lại
4
lần
và
thử
nghiệm
cho
ăn
kéo
dài
7
tuần.
Suốt
giai
đoạn
thử
nghiệm,
thay
60%
nước
bể
nuôi
hàng
ngày
bằng
nước
biển
khử
trùng
để
duy
trì
chất
lượng
nước;
giữ
nhiệt
độ
nước
và
độ
mặn
ở
mức
24
–
280C
và
26
–
29‰.
Cuối
thử
nghiệm,
thu
gom
mẫu
tôm
và
tiến
hành
phân
tích.
Kết
quả
và
thảo
luận
Trọng
lượng
thân
cuối
(FBW),
tỷ
lệ
tăng
trọng
(WGR)
và
tốc
độ
tăng
trưởng
riêng
(SGR)
của
TTCT
ở
nhóm
B
và
D
cao
hơn
hẳn
nhóm
P.
Tỷ
lệ
sống
(SR),
tỷ
lệ
chuyển
đổi
thức
ăn
(FCR)
và
chỉ
số
tích
lũy
năng
lượng
(HIS)
của
tôm
ở
tất
cả
các
nhóm
không
khác
biệt
đáng
kể.
Tỷ
lệ
ăn
(FI)
của
tôm
ở
nhóm
nghiệm
thức
B,
C,
D
cao
hơn
hẳn
nhóm
P.
Yếu
tố
điều
kiện
(CF)
của
tôm
ở
nhóm
N
cao
hơn
các
nhóm
còn
lại.
Hiệu
lực
của
5
chất
dẫn
dụ
đối
với
WGR
của
tôm
được
đánh
giá
thông
qua
phương
pháp
phân
tích
hồi
quy
đa
biến.
Các
kết
quả
cho
thấy,
WG
và
FI
của
tôm
đã
tăng
khi
tỷ
lệ
bổ
sung
bột
tôm
và
bột
mực
tăng,
nhưng
lại
giảm
khi
tỷ
lệ
bổ
sung
nấm
men
và
dịch
cá
tăng
lên.
Đối
với
phần
thân
thịt,
độ
ẩm
của
mẫu
tôm
ở
nhóm
E
cao
hơn
hẳn
nhóm
N,
C
và
D;
tỷ
lệ
tro
giống
nhau;
lipid
thô
của
tôm
ở
nhóm
B
cao
hơn
đáng
kể
so
với
các
nhóm
còn
lại,
protein
thô
của
tôm
ở
nhóm
N,
B,
và
C
cao
hơn
nhiều
so
với
nhóm
E.
Về
phần
cơ,
độ
ẩm,
tro,
lipid
thô,
protein
thô
giữa
các
nhóm
tôm
tương
đương
nhau.
Các
thông
số
sinh
hóa
tế
bào
máu
hemolymph
luôn
phản
ánh
quá
trình
trao
đổi
chất
và
tình
trạng
sức
khỏe
của
vật
nuôi.
Trong
nghiên
cứu
này,
nồng
độ
lipoprotein
cholesterin(LDL-C)
của
hemolymph
ở
nhóm
N
và
A
cao
nhất.
Điều
này
chứng
tỏ
khả
năng
loại
bỏ
cholesterol
từ
mật
của
tế
bào
tôm
ở
nhóm
N
và
A
mạnh
nhất
và
yếu
nhất
ở
nhóm
D.
Nồng
độ
HDL-C
của
hemolymph
ở
nhóm
C
và
E
cao
nhất
và
thấp
nhất
ở
nhóm
N.
Do
đó,
nhóm
C
và
E
có
khả
năng
bài
tiết
cholesterol
từ
gan
mạnh
nhất
và
nhóm
B
yếu
nhất.
Hoạt
tính
của
enzyme
kháng
ôxy
hóa
(SOD)
trong
gan
tụy
nhóm
tôm
ăn
khẩu
phần
A
cao
nhất,
và
thấp
nhất
ở
nhóm
B,
E.
Malondialdehyde
(MDA)
là
sản
phẩm
phân
hủy
lipid
của
axit
béo
không
bão
hòa
đa
(PUFA).
Trong
nghiên
cứu
này,
mức
MDA
cao
nhất
và
tổn
thương
gan
tụy
gia
tăng
được
quan
sát
ở
nhóm
B
nhưng
trong
tế
bào
máu
của
các
nhóm
tôm
đều
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể.
Dựa
trên
các
kết
quả
SOD
và
MDA,
nhóm
chuyên
gia
kết
luận,
khả
năng
chống
ôxy
hóa
của
nhóm
A
phát
triển
hoàn
chỉnh,
trong
khi
hoạt
động
chuyển
hóa
lipid
ở
nhóm
B
diễn
ra
mạnh
mẽ.
Nguyên
nhân
có
thể
do
khẩu
phần
B
chứa
nhiều
chất
béo
động
vật
hơn.
Nói
chung,
dữ
liệu
cho
thấy
chế
độ
ăn
A
tăng
cường
khả
năng
kháng
bệnh
ở
gan
tụy
của
TTCT.
Theo
quan
sát
của
nhóm
chuyên
gia,
nếp
gấp
ruột
của
tôm
ở
nhóm
B
và
D
khác
biệt
đáng
kể
so
với
nhóm
P;
chế
độ
ăn
B
và
D
làm
giảm
bớt
sưng
tấy
của
nếp
gấp
ruột
tôm,
điều
này
có
lợi
cho
việc
khôi
phục
mô
của
nếp
gấp
ruột.
Ngoài
ra,
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
chiều
cao
và
chiều
rộng
nếp
gấp
ruột,
trong
khi
độ
dày
cơ
ruột
của
nhóm
C
cao
nhất,
chứng
tỏ
tôm
ở
nhóm
này
có
khả
năng
nhu
động
ruột
cao
hơn.
Trong
nghiên
cứu,
nhóm
chuyên
gia
nhận
định
thành
phần
dinh
dưỡng
của
tôm
không
bị
ảnh
hưởng
đáng
kể
khi
bổ
sung
chất
dẫn
dụ
thức
ăn
tổng
hợp,
trừ
hàm
lượng
protein
thô
ở
nhóm
N,
B,
C
cao
hơn
đáng
kể
so
với
nhóm
E.
Triển
vọng
Kết
quả
nghiên
cứu
cho
thấy,
khẩu
phần
ăn
bổ
sung
bột
nội
tạng
mực,
dịch
cá,
bột
mực
và
bột
tôm
nhão
(B)
và
khẩu
phần
bổ
sung
nấm
men,
bột
nội
tạng
mực,
bột
mực
nhão
và
bột
tôm
nhão
(D)
đều
làm
tăng
lượng
thức
ăn
nạp
vào,
tăng
trưởng,
và
nâng
cao
khả
năng
chống
ôxy
hóa
của
TTCT.
Sự
kết
hợp
giữa
bột
nội
tạng
mực,
dịch
cá,
bột
mực
và
tôm
nhão
(B)
không
chỉ
làm
tăng
quá
trình
tổng
hợp
protein
mà
còn
thúc
đẩy
phản
ứng
gan,
tụy,
ruột
của
tôm.
Ngoài
ra,
dữ
liệu
cho
thấy,
tăng
trọng
của
tôm
và
lượng
ăn
vào
tăng
lên
khi
hàm
lượng
bột
mực
và
tôm
nhão
tăng
lên
và
giảm
xuống
khi
tỷ
lệ
bổ
sung
chiết
xuất
nấm
men
và
dịch
cá
tăng
lên.