Vì
thế
để
góp
phần
tăng
hiệu
quả
cho
nghề
nuôi
tôm,
người
nuôi
cần
tuân
thủ
đúng
qui
trình
kỹ
thuật,
trong
đó
đặc
biệt
lưu
ý
thực
hiện
tốt
các
biện
pháp:
cải
tạo
ao
thật
kỹ
trước
mỗi
vụ
nuôi,
xử
lý
tốt
nguồn
nước
cấp
và
nước
thải,
chọn
giống
tốt,
quản
lý
tốt
ao
nuôi,
thực
hiện
tốt
công
tác
cách
ly
để
phòng
ngừa
lây
nhiễm,
hợp
tác
trong
nuôi
tôm,
liên
kết
4
nhà
và
cách
xử
lý
ao
tôm
bị
bệnh
chết.
Cụ
thể:
1.
Cải
tạo
ao
trước
mỗi
vụ
nuôi:
Đưa
lớp
bùn
đáy
ra
khỏi
ao
nuôi
và
cho
vào
ao
chứa
bùn
(có
thể
cải
tạo
khô
hoặc
ướt
tùy
điều
kiện
thực
tế).
Ngâm
rửa
nền
đáy
ao.
Kiểm
tra
pH
đất
đáy
ao
để
tính
lượng
vôi
bón
vào
ao.
Lấy
nước
vào
ao
(qua
lưới
lọc)
và
ngâm
3
–
4
ngày.
Xả
bỏ
nước
trong
ao
và
phơi
đáy
ao
lại
7
–
10
ngày.
2.
Xử
lý
tốt
nguồn
nước
cấp,
nước
thải:
Để
nghề
nuôi
tôm
được
bền
vững,
ngoài
ao
nuôi
cần
có
hệ
thống
ao
lắng
và
ao
xử
lý
chất
thải.
*
Nguồn
nước
cấp:
Khi
lấy
nước
cần
kiểm
tra
kỹ
chất
lượng
nguồn
nước,
tình
hình
bệnh
tôm
ở
những
vùng
lân
cận,
lấy
nước
vào
thời
điểm
nước
lớn
trong
ngày.
Cách
thực
hiện:
Lấy
nước
vào
ao
chứa
lắng
qua
vải
lọc
dày;
Để
3
ngày,
kết
hợp
chạy
quạt;
Tiến
hành
xử
lý
nước,
có
2
cách:
Sử
dụng
Chlorine
25-30ppm
(25-30kg/1000m3)
hoặc
kết
hợp
diệt
giáp
xác
đến
diệt
cá
tạp
rồi
diệt
khuẩn.
Sau
đó
tiến
hành
gây
màu
nước.
*
Nguồn
nước
thải:
Nước
thải
từ
ao
nuôi
tôm
phải
đưa
vào
ao
xử
lý
để
xử
lý
trước
khi
thải
ra
môi
trường.
Có
thể
thả
cá
rô
phi
hoặc
trồng
rong
cỏ
trong
ao
để
thay
thế
hoá
chất
xử
lý.
3.
Chọn
giống
tốt:
Chất
lượng
giống
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
hiệu
quả
vụ
nuôi.
Cần
chọn
tôm
có
nguồn
gốc
rõ
ràng,
ở
những
trại
giống
có
uy
tín,
tôm
đã
qua
kiểm
dịch,
kiểm
tra
cảm
quan
thấy
tôm
có
màu
đặc
trưng
của
loài,
râu
và
phụ
bộ
đầy
đủ,
không
dị
hình,
ruột
đầy
thức
ăn;
tôm
đều
cỡ,
hoạt
động
nhanh
nhẹn,
có
khả
năng
bơi
ngược
dòng
và
phản
ứng
nhanh
với
tác
động
bên
ngoài.
Ngoài
ra,
tôm
giống
cần
được
kiểm
tra
một
số
bệnh
nguy
hiểm
bằng
cách
thu
mẫu
và
gửi
xét
nghiệm
bằng
phương
pháp
PCR.
Cỡ
giống
thả
thích
hợp
đối
với
tôm
thẻ
chân
trắng
là
>
PL12,
chiều
dài
>10mm;
đối
với
tôm
sú
từ
PL15
trở
lên
và
chiều
dài
>12mm.
Mật
độ
thả:
tôm
chân
trắng
60-80
con/m2,
tôm
sú
20-25
con/m2.
4.
Quản
lý
ao
nuôi:
*
Cho
ăn:
Chọn
loại
thức
ăn
viên
tổng
hợp
chuyên
dùng
cho
tôm,
trong
thực
tế
đã
được
người
nuôi
sử
dụng
có
hiệu
quả
cao.
Tùy
tình
hình
thời
tiết,
sức
khỏe
tôm,
kết
quả
kiểm
tra
đường
ruột
mà
điều
chỉnh
lượng
thức
ăn
cho
hợp
lý.
Không
cho
tôm
ăn
khi
trời
nắng
nóng
hoặc
mưa
gió
lớn,
đảm
bảo
lượng
oxy
hoà
tan
>
3mg/l
trong
suốt
thời
gian
cho
ăn,
giảm
cho
ăn
trong
lúc
tôm
lột
xác,
kiểm
tra
sàng
ăn
để
điều
chỉnh
lượng
thức
ăn
cho
hợp
lý.
Định
kỳ
bổ
sung
khoáng,
vitamin
C,
men
vi
sinh…
cho
tôm
nuôi.
*
Quạt
nước,
sục
khí:
Nhu
cầu
máy
quạt
nước,
sụt
khí
cho
ao
nuôi
phụ
thuộc
vào
độ
sâu
và
diện
tích
ao.
Thời
gian
vận
hành
máy
quạt
nước,
sục
khí
phụ
thuộc
vào
thời
gian
nuôi,
tôm
càng
lớn
thời
gian
vận
hành
máy
càng
nhiều.
Những
lúc
màu
nước
ao
xấu,
tôm
bị
bệnh
phải
dùng
thuốc
hoặc
hóa
chất
xử
lý
phải
mở
máy
liên
tục.
Phải
đảm
bảo
hàm
lượng
oxy
hoà
tan
tầng
đáy
>
3mg/l.
*
Quản
lý
các
yếu
tố
môi
trường:
Cần
phải
theo
dõi
kết
quả
quan
trắc
môi
trường
thường
xuyên
nhất
là
khi
có
kế
hoạch
lấy
nước
vào
ao;
duy
trì
các
chỉ
tiêu
về
chất
lượng
nước
thật
ổn
định
và
nằm
trong
phạm
vi
thích
hợp:
pH:
7.5
–
8.5
và
biến
động
trong
ngày
đêm
phải
nhỏ
hơn
0.5;
độ
kiềm
80-120mg/l;
hàm
lượng
oxy
hòa
tan
5-7mg/l,
oxy
tầng
đáy
>3
mg/l;
các
khí
độc
như:
NH3,
NO2
và
H2S
không
có
hoặc
nhỏ
hơn
0.02
mg/l;
cách
khống
chế
NH3,
NO2
và
H2S
trong
ao
nuôi
tôm:
không
thả
quá
dày,
quản
lý
tốt
việc
cho
tôm
ăn,
sử
dụng
các
chế
phẩm
sinh
học.
5.
Thực
hiện
tốt
công
tác
cách
ly
để
phòng
ngừa
lây
nhiễm:
Hệ
thống
rào
bao
quanh
phải
đảm
bảo
kín,
vật
chủ
trung
gian
mang
mầm
bệnh
không
xâm
nhập
được,
ngăn
ngừa
gia
súc,
gia
cầm
vào
ao
nuôi.
Người
không
phận
sự
không
được
phép
vào
ao
nuôi.
Cần
vệ
sinh,
sát
trùng
người,
vật
ra
vào
ao
nuôi,
dụng
cụ
sử
dụng
phải
riêng
biệt
từng
ao
nuôi
và
được
vệ
sinh,
sát
trùng
sau
khi
sử
dụng.
Ngoài
ra
cần
áp
dụng
các
mô
hình
nuôi
thân
thiện
với
môi
trường
nhằm
cách
ly
sự
phát
triển
của
các
loại
mầm
bệnh:
nuôi
một
vụ
tôm
một
vụ
là
đối
tượng
thủy
sản
khác,
nuôi
tôm
quảng
canh
cải
tiến
–
trồng
lúa,
nuôi
cá
rô
phi
kết
hợp
tôm
(thả
rô
phi
trong
lồng
đặt
trong
ao
tôm
hoặc
thả
vô
ao
tôm),
dùng
cá
rô
phi
để
xử
lý
nước
trong
ao
lắng
hoặc
sử
dụng
trùn
quế
làm
thức
ăn
bổ
sung,
tăng
cường
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
hạn
chế
sử
dụng
thuốc.
6.
Hợp
tác
trong
nuôi
tôm:
Nhà
nước
khuyến
khích
tổ
chức
sản
xuất
theo
mô
hình
hợp
tác
tự
nguyện
để
giúp
nhau
trong
khâu
kỹ
thuật;
dịch
vụ
về
giống,
thức
ăn,
thuốc
thú
y
thuỷ
sản;
phòng
trừ
dịch
bệnh
và
tiêu
thụ
sản
phẩm;
đặc
biệt
là
nâng
cao
nhận
thức
trong
việc
bảo
vệ
môi
trường
và
có
ý
thức
phòng
bệnh
chung.
Để
thực
hiện
tốt
việc
này:
Nhà
nước
cần
hỗ
trợ
kinh
phí
cho
việc
xây
dựng
hệ
thống
cống
cấp
và
thoát
nước,
xây
dựng
ao
lắng
(20-25%
diện
tích
ao
nuôi)
cho
vùng
nuôi.
Người
dân
hợp
tác
các
khâu:
Cải
tạo
ao
đồng
loạt;
chọn
cùng
nguồn
giống
đạt
chất
lượng
tốt;
thả
giống
đồng
loạt;
đóng
góp
chi
phí
xử
lý
nước
trong
ao
lắng
theo
tỉ
lệ
sử
dụng
nước
cấp;
chọn
chung
nhà
cung
cấp
thức
ăn,
vật
tư
thuốc
thú
y
thủy
sản
để
có
những
chính
sách
ưu
đãi;
được
cán
bộ
kỹ
thuật
thường
xuyên
đến
hỗ
trợ
kỹ
thuật
cụ
thể
cho
từng
ao
nuôi
và
thông
tin
những
vấn
đề
có
liên
quan
đến
nuôi
tôm
cho
bà
con
nông
dân
kịp
thời.
7.
Liên
kết
04
nhà:
là
nhu
cầu
hết
sức
cần
thiết
hiện
nay.
*
Nhà
nước:
Cần
có
quy
hoạch
vùng
nuôi.
Đầu
tư
hoàn
chỉnh
hệ
thống
đê
bao,
kênh
cấp
–
thoát
trong
vùng
nuôi.
Cần
có
những
chính
sách
hỗ
trợ
cụ
thể
cho
người
dân
như:
thuế,
vốn,
hạ
tầng
cơ
sở,
phòng
chống
lây
lan
dịch
bệnh.
Cần
có
chính
sách
khuyến
khích,
thu
hút
các
nhà
đầu
tư
phát
triển
thủy
sản,
đặc
biệt
là
chế
biến
để
góp
phần
ổn
định
giá
cả
đầu
ra
và
tiêu
thụ
sản
phẩm.
Khuyến
khích
và
có
những
chính
sách
cụ
thể
để
hỗ
trợ
các
tổ
hợp
tác
tự
nguyện
nuôi
trồng
thủy
sản.
*
Nhà
nông:
Tuân
thủ
đúng,
đủ
qui
trình
kỹ
thuật
khi
nuôi.
Tùy
theo
khả
năng
(kỹ
thuật,
tài
chính...)
mà
chọn
mô
hình
nuôi
cho
phù
hợp.
Nắm
bắt
kịp
thời
thông
tin
thị
trường,
mùa
vụ
sản
xuất.
Phải
liên
kết
và
có
ý
thức
cộng
đồng
cao.
*
Nhà
khoa
học:
Tăng
cường
quan
hệ
với
các
Viện
-
Trường
nhằm
tiếp
nhận
kịp
thời
những
thông
tin,
quy
trình
công
nghệ
mới,
các
giống
loài
mới.
Phối
hợp
với
địa
phương
tổ
chức
trình
diễn
kịp
thời,
đáp
ứng
cho
nhu
cầu
phát
triển
thuỷ
sản
của
tỉnh.
Hướng
đến
xây
dựng
qui
trình
nuôi
an
toàn
sinh
học,
tạo
ra
các
sản
phẩm
“sạch”
phục
vụ
mục
tiêu
xuất
khẩu.
Tập
huấn
cho
nông
dân
kỹ
thuật
sơ
chế,
bảo
quản
sản
phẩm
sau
thu
hoạch.
Tổ
chức
nhiều
mô
hình
trình
diễn
kết
hợp
chương
trình
dạy
nghề
nông
thôn
để
nhân
rộng
mô
hình.
Luôn
bên
cạnh
và
đáp
ứng
kịp
thời
nhu
cầu
của
nông
dân.
*
Nhà
doanh
nghiệp:
Liên
kết
chuỗi
sản
xuất
-
chế
biến
và
tiêu
thụ:
Đầu
tư
một
phần
kinh
phí
cho
nông
dân,
ký
hợp
đồng
bao
tiêu
sản
phẩm,
giá
cả
ổn
định,
đảm
bảo
người
nuôi
tôm
có
lãi.
Chú
trọng
đầu
tư
công
nghệ
chế
biến
theo
hướng
các
sản
phẩm
giá
trị
gia
tăng.
8.
Xử
lý
ao
tôm
bị
bệnh
chết:
Nếu
không
may
tôm
nuôi
có
dấu
hiệu
bị
nhiễm
bệnh
hoặc
chết
bất
thường,
người
dân
tuyệt
đối
không
xả
thải
ra
môi
trường
bên
ngoài
ao
nuôi,
thực
hiện
ngay
các
biện
pháp
cách
ly
và
khai
báo
ngay
cho
Ban
quản
lý
vùng
nuôi,
Trạm
Thú
y,
Trạm
Thủy
sản,
UBND
xã,
Phòng
Nông
nghiệp
và
PTNT
huyện
để
được
hướng
dẫn
cách
ly
và
hỗ
trợ
xử
lý
mầm
bệnh
kịp
thời.
Đối
với
ao
tôm
không
may
bị
bệnh
đốm
trắng,
gan
tụy,
đầu
vàng
hoặc
bệnh
truyền
nhiễm
khác
dùng
Chlorine
liều
lượng
25-30kg/1.000m3
hoặc
TCCA
liều
lượng
5kg/1.000m3
(Chi
cục
Thú
y
đang
sử
dụng)
để
xử
lý
ao
nuôi
tôm
bị
bệnh,
ít
nhất
sau
15
ngày
mới
xả
nước
vào
ao
chứa
nước
thải.
Loại
bỏ
hết
tôm
chết
ra
khỏi
ao
để
tiêu
hủy,
sau
đó
tiến
hành
cải
tạo
đáy
ao.
Trong
quá
trình
phơi
ao,
dùng
hóa
chất
để
tiêu
diệt
mầm
bệnh
còn
lại
trong
ao,
chú
ý
cần
ngâm
rửa
đáy
ao
cho
đến
khi
pH
ổn
định
trước
khi
lấy
nước
vào
ao.
Thời
gian
cách
ly
ít
nhất
1
tháng,
sau
đó
có
thể
tiến
hành
thả
nuôi
trở
lại.
Để
đảm
bảo
an
toàn
cho
vụ
nuôi
tôm,
nếu
ao
tôm
bị
bệnh
chết
khi
xử
lý
ao
xong
nên
nuôi
loài
thủy
sản
khác
như
cá
rô
phi,
cua...
hoặc
cho
ao
nghỉ
kết
hợp
dùng
các
cây
cỏ
để
lọc
sinh
học
nước.
Lưu
ý:
Không
sử
dụng
các
hoá
chất
cấm,
thuốc
bảo
vệ
thực
vật
trong
quá
trình
cải
tạo
ao,
xử
lý
nước
và
nuôi.
Khi
nào
môi
trường
nuôi
thật
sự
ổn
định
mới
thả
giống
lại.
Nếu
người
nuôi
tôm
thực
hiện
đúng
quy
trình
kỹ
thuật
và
những
lưu
ý
trên
sẽ
góp
phần
thành
công
cho
nghề
nuôi
tôm
của
mình
một
cách
bền
vững.