Việc
Chính
phủ
đưa
ra
giải
pháp
thích
ứng
biến
đổi
khí
hậu
là
không
trồng
lúa,
các
loại
cây
ăn
trái
ở
những
nơi
đã
bị
mặn
hóa
và
thay
thế
bằng
phát
triển
nuôi
thủy
sản
với
đối
tượng
chủ
lực
là
tôm
có
thể
coi
là
giải
pháp
tối
ưu
trong
giai
đoạn
hiện
nay
và
thời
gian
tới.
Biến
đổi
khí
hậu
đang
tác
động
tiêu
cực
tới
sản
xuất
nông
nghiệp
trên
cả
nước,
đặc
biệt
là
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long.
Thế
nhưng
bài
toán
khó
ấy
đã
có
thể
tìm
được
một
phần
lời
giải
tại
Hội
nghị
phát
triển
ngành
tôm
Việt
Nam
diễn
ra
ngày
6/2
dưới
sự
chủ
trì
của
Thủ
tướng
Nguyễn
Xuân
Phúc.
Đó
là
quyết
tâm
biến
ngành
nuôi,
chế
biến
tôm
thành
ngành
kinh
tế
mũi
nhọn
của
đất
nước,
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu
trong
thời
gian
tới;
khẳng
định
Việt
Nam
có
đủ
điều
kiện
và
lợi
thế
để
phát
triển
ngành
tôm
và
phấn
đấu
trở
thành
một
"công
xưởng
sản
xuất
tôm
của
thế
giới"…
Đồng
tình
với
việc
Chính
phủ,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
đưa
ra
giải
pháp
thích
ứng
là
không
trồng
lúa
và
các
loại
cây
ăn
trái
ở
những
nơi
đã
bị
mặn
hóa
mà
thay
thế
vào
đó
là
phát
triển
nuôi
thủy
sản
và
đối
tượng
chủ
lực
được
lựa
chọn
là
tôm
sú
(Penaeus
monodon)
và
tôm
chân
trắng
(Litopenaeus
vannamei),
Hội
Nghề
cá
Việt
Nam
có
đưa
ra
một
số
giải
pháp
trong
tổ
chức
sản
xuất,
đầu
tư
kỹ
thuật
và
quản
lý
theo
chuỗi
khép
kín
và
hoàn
chỉnh.
Quy
hoạch
lại
vùng
nuôi
Biến
đổi
khí
hậu
làm
cho
nhiệt
độ
tăng,
nước
mặn
xâm
nhập
sâu
và
kéo
dài,
dẫn
tới
yêu
cầu
tất
yếu
là
các
quy
hoạch
về
nuôi
thủy
sản
nói
chung,
nuôi
tôm
nói
riêng
đã
được
lập
trước
đây
cần
được
xem
xét
và
điều
chỉnh
cho
phù
hợp.
Căn
cứ
quy
hoạch
tổng
thể
theo
từng
khu
vực
lãnh
thổ,
chúng
ta
sẽ
xây
dựng
quy
hoạch
chi
tiết
của
từng
địa
phương
đến
từng
vùng
nuôi.
Theo
đó,
việc
quy
hoạch
chi
tiết
có
thể
theo
hướng
phân
thành
6
vùng
nuôi
tôm,
gồm:
Vùng
nuôi
tôm
chuyên
canh
tại
rừng
ngập
mặn
(tôm
sinh
thái);
vùng
nuôi
tôm
kết
hợp,
khi
mùa
khô
độ
mặn
lên
cao
nuôi
tôm
và
mùa
mưa
độ
mặn
giảm
thấp
trồng
lúa;
vùng
nuôi
tôm
vào
mùa
mưa
khi
độ
mặn
giảm
và
nuôi
Actemia
(loại
thức
ăn
của
ấu
trùng
tôm
hiện
chủ
yếu
phải
nhập
ngoại)
vào
mùa
khô
khi
độ
mặn
tăng
cao;
vùng
nuôi
tôm
chung
với
các
loại
thủy
sản
có
giá
trị
kinh
tế;
vùng
nuôi
tôm
bao
gồm
nhiều
hộ
nuôi
quy
mô
nhỏ;
vùng
nuôi
tôm
công
nghệ
cao.
Việc
lập
quy
hoạch
là
biện
pháp
quan
trọng
hàng
đầu
để
định
hướng
trong
việc
triển
khai
các
vùng
nuôi
sau
này.
Công
tác
quản
lý
ngành
tôm
nên
quy
về
một
mối
Cả
nước
hiện
có
trên
1.300
trại
tôm
giống,
nhưng
riêng
2
hệ
thống
sản
xuất,
do
nước
ngoài
quản
lý
là
CP
và
Việt
Úc
đã
cung
cấp
tới
40%
nhu
cầu
tôm
giống.
Các
trại
giống
tôm
do
người
Việt
Nam
làm
chủ,
hầu
hết
có
công
nghệ
lạc
hậu;
bố
trí
các
khu
chức
năng
và
quản
lý
sản
xuất
không
bảo
đảm
an
toàn
sinh
học,
do
vậy
chất
lượng
tôm
giống
không
ổn
định,
tỉ
lệ
nhiễm
bệnh
cao,
nên
ít
được
người
nuôi
tôm
thương
phẩm
lựa
chọn.
Hiện
nay,
chúng
ta
có
2
quy
chuẩn
quốc
gia
cho
trại
giống
là
Quy
chuẩn
kỹ
thuật
quốc
gia
về
cơ
sở
sản
xuất
giống
thủy
sản
–
điều
kiện
an
toàn
thực
phẩm,
an
toàn
sinh
học
và
môi
trường
do
Chi
cục
Quản
lý
chất
lượng
nông,
lâm
và
thủy
sản,
Chi
cục
Thủy
sản
thực
hiện
kiểm
soát
và
Quy
chuẩn
kỹ
thuật
quốc
gia
về
cơ
sở
sản
xuất
giống
tôm
nước
lợ
-
điều
kiện
bảo
đảm
vệ
sinh
thú
y,
bảo
vệ
môi
trường
do
Cục
Thú
y/Chi
cục
Thú
y
kiểm
soát.
Việc
kiểm
tra
chất
lượng
con
giống
cũng
được
chia
cho
2
cơ
quan:
Kiểm
tra
kích
thước,
màu
sắc,
phản
xạ
của
tôm
giống
do
Chi
cục
Thủy
sản
các
tỉnh
thực
hiện.
Còn
kiểm
tra
tác
nhân
gây
bệnh
(virus,
vi
khuẩn,
nấm,
ký
sinh
trùng)
trong
tôm
giống
do
Chi
cục
Thú
y
thực
hiện.
Hình
thức
quản
lý
như
trên
đã
gây
nhiều
khó
khăn,
tốn
kém
cho
các
trại
sản
xuất
tôm
giống
và
hiệu
quả
kiểm
soát
không
cao.
Để
khắc
phục
tình
trạng
này,
chúng
tôi
đề
xuất
xây
dựng
Quy
chuẩn
kỹ
thuật
Quốc
gia
“Trại
sản
xuất
tôm
giống
-
Điều
kiện
an
toàn
sinh
học”,
để
thay
thế
cho
2
Quy
chuẩn
hiện
có.
Sau
đó
thực
hiện
kiểm
soát
chặt
chẽ
tại
tất
cả
các
trại
tôm
giống
và
chỉ
những
trại
đáp
ứng
quy
chuẩn
này
mới
được
phép
sản
xuất
và
bán
tôm
giống
ra
thị
trường.
Đối
với
công
tác
quản
lý
Nhà
nước,
nên
giao
cho
một
đầu
mối
là
Tổng
cục
Thủy
sản
và
Chi
cục
Thủy
sản
ở
địa
phương
quản
lý
trại
giống,
chất
lượng
tôm
giống;
quản
lý
sản
xuất,
kỹ
thuật,
kiểm
soát
bệnh,
dịch
trong
quá
trình
nuôi
tôm
thương
phẩm…
Một
bất
cập
nữa
trong
công
tác
quản
lý
Nhà
nước
là,
sau
khi
Luật
Thú
y
ra
đời,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
đã
ban
hành
Thông
tư
số
23/2016/TT-BNNPTNT
tách
sản
phẩm
xử
lý
cải
tạo
môi
trường
nuôi
trồng
thủy
sản
thành
2
nhóm,
nhóm
1
có
tác
dụng
diệt
khuẩn
trong
nước
nuôi
thủy
sản
do
Cục
Thú
y
quản
lý
như
quản
lý
thuốc
thú
y
và
nhóm
2
có
tác
dụng
điều
chỉnh
các
chỉ
tiêu
môi
trường
nước
nuôi
thủy
sản
như
ôxy
hòa
tan,
độ
mặn,
độ
kiềm,
độ
pH,
NH3…
được
giao
cho
Tổng
cục
Thủy
sản
quản
lý
theo
trình
tự
thủ
tục
quản
lý
thức
ăn
chăn
nuôi.
Việc
tách
chia
và
phân
công
quản
lý
như
trên
không
phù
hợp
với
phân
loại
sản
phẩm
xử
lý
cải
tạo
môi
trường
nuôi
thủy
sản
của
thế
giới
và
không
phù
hợp
với
phân
công
trước
đây
của
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn,
gây
rất
nhiều
khó
khăn,
phiền
hà
và
tốn
kém
cho
doanh
nghiệp
sản
xuất
kinh
doanh
thuốc
trị
bệnh;
sản
phẩm
xử
lý
cải
tạo
môi
trường
nuôi
thủy
sản.
Do
vậy,
theo
chúng
tôi,
vẫn
giữ
nguyên
sản
phẩm
xử
lý
cải
tạo
môi
trường
nuôi
thủy
sản
là
một
nhóm
và
cơ
quan
quản
lý
sản
phẩm
này
là
Tổng
cục
Thủy
sản/Chi
cục
Thủy
sản
các
địa
phương
như
trước
đây.
Tạo
chuỗi
liên
kết
từ
ao
nuôi
đến
tiêu
thụ
Hiện
nay
cả
nước
có
475
doanh
nghiệp
đủ
điều
kiện
sản
xuất
thủy
sản
an
toàn
thực
phẩm
để
xuất
khẩu
vào
các
quốc
gia
thuộc
EU,
Mỹ,
Nhật
(là
những
thị
trường
có
yêu
cầu
an
toàn
thực
phẩm
cao
nhất
thế
giới),
nhưng
tại
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long,
mới
có
5
doanh
nghiệp
chế
biến
tôm,
đồng
thời
có
vùng
nuôi
tôm.
Những
doanh
nghiệp
này
hoàn
toàn
có
thể
kiểm
soát
mối
nguy
gây
mất
an
toàn
thực
phẩm
từ
khâu
nuôi,
chế
biến
đến
tiêu
thụ
sản
phẩm
(nếu
nguyên
liệu
tôm
được
thu
hoạch
từ
đầm
nuôi
của
công
ty).
Hình
thức
liên
kết
giữa
công
ty
chế
biến
với
người
nuôi
tôm
thông
qua
việc
hỗ
trợ
vốn,
hướng
dẫn
kỹ
thuật
và
bao
tiêu
sản
phẩm
đã
có,
nhưng
chưa
nhiều
và
chưa
bền
vững.
Do
vậy,
phần
lớn
nguyên
liệu
tôm
cho
chế
biến,
các
doanh
nghiệp
phải
trực
tiếp
mua
từ
các
chủ
đầm
nuôi
hoặc
mua
qua
thương
lái
và
phải
gánh
chịu
nhiều
rủi
ro
như
hóa
chất,
kháng
sinh
sử
dụng
trong
nuôi
tôm
hoặc
trong
bảo
quản
nguyên
liệu;
các
loại
tạp
chất
lẫn
trong
chất
dịch
được
bơm
vào
tôm
nguyên
liệu
để
kiếm
lợi
bất
chính…
Đây
cũng
là
nguyên
nhân
dẫn
tới
tình
trạng
các
lô
hàng
tôm
của
Việt
Nam
bị
trả
về
từ
các
quốc
gia
nhập
khẩu
khoảng
1-3%
mỗi
năm
(tương
đương
hàng
chục
triệu
USD).
Để
khắc
phục
tình
trạng
trên,
Nhà
nước
cần
sớm
có
chính
sách
“mở
rộng
hạn
điền”
cho
phép
tích
tụ
đất
nuôi,
trồng
thủy
sản
nói
chung,
nuôi
tôm
nói
riêng
với
thời
hạn
cho
thuê
50
năm
(theo
Luật
Đất
đai
hiện
tại
là
20
năm),
cho
vay
vốn
ưu
đãi
để
phát
triển
vùng
nuôi
tôm
đáp
ứng
yêu
cầu
VietGAP.
Đồng
thời,
đưa
vào
Bộ
luật
Hình
sự
sửa
đổi
tội
danh
bơm
chích
tạp
chất
vào
tôm
nguyên
liệu
với
khung
hình
phạt
đủ
sức
răn
đe,
nâng
cao
tính
pháp
lý
của
hợp
đồng
dân
sự
giữa
doanh
nghiệp
chế
biến
với
người
nuôi
tôm
hoặc
các
đại
lý
cung
cấp
tôm
nguyên
liệu.
Có
chiến
lược
xây
dựng
thương
hiệu
phạm
vi
toàn
cầu
Sản
phẩm
tôm
của
Việt
Nam
đã
được
bán
cho
khoảng
150
quốc
gia,
nhưng
khi
vào
siêu
thị
của
các
quốc
gia
này,
thì
số
bao
bì
bán
lẻ
mang
tên
công
ty
chế
biến
của
Việt
Nam
chưa
nhiều
và
những
dạng
sản
phẩm
đặc
biệt
mà
người
dùng
muốn
mua,
phải
tìm
đến
thương
hiệu
của
công
ty
Việt
Nam
lại
càng
ít
hơn.
Đây
là
một
yếu
tố
dẫn
tới
giá
tôm
Việt
Nam
không
cao
hơn
giá
của
mặt
bằng
chung
của
thế
giới.
Để
khắc
phục
tình
trạng
trên,
chúng
tôi
kiến
nghị
Nhà
nước
nên
xây
dựng
băng
hình
mô
tả
quá
trình
sản
xuất
tôm
của
Việt
Nam
(từ
sản
xuất
giống,
nuôi
thương
phẩm,
chế
biến
đến
xuất
khẩu
gắn
với
bảo
vệ
môi
trường
và
môi
sinh),
quảng
bá
rộng
rãi
băng
hình
theo
nhiều
hình
thức
và
được
cập
nhật
hằng
năm.
Cùng
với
đó
là
xây
dựng
giáo
trình
hướng
dẫn
cách
xây
dựng
thương
hiệu
cho
doanh
nghiệp
chế
biến
tôm
và
tổ
chức
đào
tạo
miễn
phí
cho
tất
cả
các
đối
tượng
muốn
tham
gia.
Cải
tiến
hình
thức
tham
gia
hội
chợ
quốc
tế
trong
đó
Nhà
nước
ưu
tiên
tài
trợ
cho
các
hoạt
động
quảng
bá
thương
hiệu
của
quốc
gia
và
từng
doanh
nghiệp.
Đối
với
rào
cản
an
toàn
thực
phẩm,
cần
hướng
dẫn
cho
người
nuôi
biện
pháp
kiểm
soát
tốt
môi
trường
mà
không
dùng
đến
hóa
chất,
kiểm
soát
bệnh,
dịch
trong
nuôi
tôm
thông
qua
việc
thực
hiện
tốt
Chương
trình
an
toàn
sinh
học
hoặc
mức
độ
cao
hơn
là
áp
dụng
VietGAP;
quảng
bá
sâu,
rộng
và
mạnh
mẽ
các
chương
trình
kiểm
soát
mà
Việt
Nam
đã
thực
hiện,
để
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của
quốc
gia
nhập
khẩu
và
người
tiêu
dùng
nước
ngoài
từ
chỗ
có
lòng
tin
và
yên
tâm
khi
sử
dụng,
tiến
tới
yêu
thích
sử
dụng
sản
phẩm
tôm
của
Việt
Nam.
Đối
với
các
rào
cản
kỹ
thuật
khác,
Nhà
nước
nên
tăng
cường
mạng
lưới
thông
tin
thị
trường,
dự
báo
sớm
những
rào
cản
có
thể
bị
áp
đặt
ở
từng
quốc
gia
đối
với
sản
phẩm
tôm
Việt
Nam,
để
doanh
nghiệp
chuẩn
bị
ứng
phó;
thường
xuyên
tổ
chức
những
khóa
tập
huấn
về
biện
pháp
kỹ
thuật
chống
lại
sự
áp
đặt
của
các
loại
rào
cản
nói
trên.
Theo
baochinhphu.vn