Diện
tích
nuôi
tôm
có
lẽ
đã
chạm
ngưỡng,
ngành
chức
năng
hướng
đến
mục
tiêu
nâng
cao
hơn
nữa
năng
suất
vụ
nuôi.
Để
thực
hiện
được
điều
này,
việc
đẩy
mạnh
ứng
dụng
công
nghệ
đang
được
đánh
giá
là
giải
pháp
khả
thi
nhất.
Lợi
thế
lớn
của
tôm
Việt
Theo
ông
Vũ
Duyên
Hải,
Phó
Vụ
trưởng
Vụ
Khoa
học
Công
nghệ
và
Hợp
tác
quốc
tế
(Tổng
cục
Thủy
sản),
Việt
Nam
đã
hình
thành
một
hệ
sinh
thái
tôm
rất
bền
vững,
với
các
tên
tuổi,
thương
hiệu
lớn
như
Minh
Phú,
Việt
-
Úc…
Hiện
nay,
ngành
tôm
đang
đứng
trước
cơ
hội
rất
lớn
khi
có
sự
hậu
thuẫn
từ
hiệp
định
thương
mại
tự
do
với
các
thị
trường
nhập
khẩu
tôm
chủ
lực.
Vì
vậy,
Tổng
cục
Thủy
sản
đã
và
sẽ
tổ
chức
nhiều
diễn
đàn
nhằm
tạo
không
gian
kết
nối
các
thành
phần
trong
hệ
sinh
thái
thông
qua
việc
giới
thiệu
một
số
kết
quả
công
nghệ,
giải
pháp
kỹ
thuật,
quản
lý
tốt
nhất,
giúp
hệ
sinh
thái
ngành
tôm
khỏe
mạnh
hơn,
thích
ứng
tốt
hơn
với
các
rủi
ro,
thách
thức
đến
từ
biến
đổi
khí
hậu,
thị
trường,
dịch
bệnh…;
từ
đó,
đưa
năng
suất,
giá
trị
ngành
tôm
ngày
một
cao
hơn.

Ảnh
minh
họa
Đại
diện
cho
GIZ
(Tổ
chức
Hợp
tác
Quốc
tế
Đức),
ông
Ngô
Tiến
Chương
cho
biết,
thời
gian
qua,
GIZ
thực
hiện
các
dự
án
ứng
dụng
công
nghệ
và
đổi
mới
sáng
tạo
trong
sản
xuất
tôm,
để
thích
ứng
biến
đổi
khí
hậu
và
cải
thiện
chuỗi
giá
trị
tôm.
Riêng
về
thị
trường,
ông
Chương
cho
rằng
xu
hướng
tiêu
dùng
trên
thế
giới
ngày
càng
quan
tâm
nhiều
hơn
đến
sản
phẩm
hữu
cơ
và
truy
xuất
nguồn
gốc
sản
phẩm,
nên
trước
mắt
cần
phải
đổi
mới
công
nghệ,
quản
lý
trong
nuôi
tôm.
Thông
tin
thêm
về
thị
trường
tôm
từ
nay
đến
cuối
năm,
ông
Trương
Đình
Hòe,
Tổng
Thư
ký
VASEP
nhận
định,
cơ
hội
cho
ngành
tôm
thời
hậu
COVID-19
là
rất
lớn,
khi
các
đối
thủ
xuất
khẩu
tôm
của
Việt
Nam
như
Ấn
Độ,
Ecuador,
Thái
Lan,
Indonesia…
vẫn
còn
dịch,
còn
Trung
Quốc
thì
đang
vướng
bệnh
mới
trên
tôm
là
DIV1.
“Con
tôm
Việt
Nam
đang
có
lợi
thế
lớn
về
thuế
tại
các
thị
trường
lớn,
như:
Mỹ,
EU,
Nhật
Bản…
cùng
với
đó
là
nhu
cầu
tiêu
dùng
thế
giới
tăng
trở
lại
do
các
điều
kiện
phong
tỏa,
cách
ly
để
chống
dịch
COVID-19
đang
dần
được
nới
lỏng,
xóa
bỏ.
Do
đó,
vấn
đề
còn
lại
là
làm
sao
ứng
dụng
kỹ
thuật,
quản
lý
tốt
để
có
vụ
nuôi
thành
công,
đảm
bảo
sản
lượng
cho
chế
biến,
xuất
khẩu”,
ông
Hòe
cho
biết.
Tất
yếu
phải
thay
đổi
Ông
Trần
Công
Khôi,
Phó
Vụ
trưởng
Vụ
Nuôi
trồng
thủy
sản,
cho
biết
do
ảnh
hưởng
hạn
hán,
xâm
nhập
mặn
gay
gắt,
kéo
dài
cùng
với
giá
tôm
quý
I/2020
giảm
khoảng
20%
so
cùng
kỳ,
nên
tiến
độ
thả
nuôi
có
phần
chậm
hơn.
Do
đó,
để
đảm
bảo
hoàn
thành
kế
hoạch
vụ
nuôi,
Tổng
cục
Thủy
sản
đã
đề
ra
một
số
nhiệm
vụ
và
giải
pháp
chính,
như:
tiếp
tục
triển
khai
có
hiệu
quả
Luật
Thủy
sản
năm
2017
cũng
như
kế
hoạch
hành
động
quốc
gia
phát
triển
ngành
tôm
Việt
Nam
đến
năm
2025;
ứng
phó
tốt
hạn
mặn
và
công
tác
quan
trắc
môi
trường
phòng
chống
dịch
bệnh;
quản
lý
chặt
vật
tư
đầu
vào;
phổ
biến
nhân
rộng
các
mô
hình
nuôi
có
hiệu
quả,
tăng
cường
chuyển
giao
khoa
học
công
nghệ…
Trước
xu
thế
tiêu
dùng
ngày
một
thay
đổi;
các
rào
cản
kỹ
thuật
ngày
càng
khắt
khe;
thời
tiết,
khí
hậu
diễn
biến
khó
lường;
dịch
bệnh
trên
tôm
vẫn
chưa
được
loại
trừ…
con
đường
tất
yếu
để
phát
triển
ngành
tôm
hiệu
quả
và
bền
vững
được
xác
định
là
phải
ứng
dụng
các
giải
pháp
kỹ
thuật
và
quản
lý
tiên
tiến
vào
nuôi
tôm.
Mới
đây,
có
rất
nhiều
giải
pháp
kỹ
thuật
và
quản
lý
được
các
doanh
nghiệp
giới
thiệu
đến
người
nuôi
tôm
như:
Giải
pháp
thúc
đẩy
liên
kết
chuỗi
giá
trị
ngành
tôm
nước
lợ
Việt
Nam
của
Công
ty
Tôm
Sài
Gòn;
các
giải
pháp
kỹ
thuật
nâng
cao
năng
suất,
chất
lượng
tôm
nuôi
của
Minh
Phú,
WWF
Việt
Nam,
C.P.
Việt
Nam,
Hikaru,
Fuji…
hay
các
giải
pháp
ứng
dụng
công
nghệ
4.0
vào
ngành
tôm
của
EpertSea,
Boch…
Cùng
đó
là
các
giải
pháp
phòng
trị
bệnh
trên
tôm,
như:
giải
pháp
tổng
hợp
kiểm
soát
bệnh
EMS,
EHP
và
phân
trắng;
một
số
giải
pháp
phòng
trị
bệnh
do
vi
bào
tử
trùng…
>> Theo
Tổng
cục
Thủy
sản,
đến
nay
diện
tích
thả
nuôi
tôm
tại
các
địa
phương
đạt
481.534
ha/730.000
ha, trong
đó,
tôm
sú
chiếm
gần
85%
diện
tích
thả
nuôi.
Tuy
nhiên,
diện
tích
tôm
nuôi
bị
thiệt
hại
gần
16.000
ha,
nguyên
nhân
do
dịch
bệnh
và
môi
trường. |