Theo
báo
cáo
của
các
nhà
nghiên
cứu
Mexico
đăng
ngày
7/2/2016
trên
trang
thông
tin
của
Liên
minh
Nuôi
trồng
thủy
sản
toàn
cầu
(GAA),
họ
đã
thí
nghiệm
thành
công
việc
sử
dụng
mạch
kép
RNA
để
chống
lại
virus
gây
đốm
trắng
trên
tôm.
Đây
là
một
tín
hiệu
khả
quan
cho
ngành
tôm
để
tránh
được
những
thiệt
hại
do
bệnh
này
gây
ra.
Thiết
kế
thí
nghiệm
Các
nhà
khoa
học
đã
thành
lập
một
nghiên
cứu
đánh
giá
hiệu
quả
của
sợi
kép
(ds)RNA
ở
gen
vô
định
hình
là
orf89
và
wsv191
so
với
hai
gen
định
hình
vp26
và
vp28
của
virus
đốm
trắng
để
chống
lại
WSSV
trong
cùng
điều
kiện
thí
nghiệm.
Các
nhà
khoa
học
tiến
hành
lấy
tôm
thẻ
chân
trắng
giống
từ
một
trại
giống
ở
Sonora,
Mexico
đã
được
xét
nghiệm
PCR
cho
kết
quả
âm
tính
với
WSSV.
Các
con
tôm
này
được
nuôi
trong
môi
trường
thí
nghiệm
với
độ
mặn
25‰,
nhiệt
độ
27
±
20C
và
được
sục
khí
liên
tục.
Định
kỳ
thay
50%
nước
với
3
ngày/lần
để
duy
trì
chất
lượng
nước.
Sau
đó,
những
con
tôm
này
được
tiến
hành
gây
nhiễm
từ
tôm
bị
WSSV
ngoài
tự
nhiên
từ
Sinaloa,
Mexico
với
nồng
độ
được
pha
loãng
từ
102
-
107.
Tiến
hành
tiêm
để
gây
nhiễm
WSSV
cho
tôm
và
nuôi
trong
môi
trường
thí
nghiệm
ở
bể
có
thể
tích
12
lít.
Sau
đó,
thực
hiện
theo
dõi
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
và
tỷ
lệ
chết
của
tôm
nhiễm
WSSV
trong
10
ngày
với
tần
suất
kiểm
tra
là
2
lần/ngày.
Nồng
độ
nhiễm
bệnh
và
khả
năng
gây
chết
được
xác
định
tương
ứng
là
105.6
SID50/ml
và
105.6
LD-50/ml.
Ở
nồng
độ
SID50
tỷ
lệ
tôm
bị
nhiễm
bệnh
là
50%.
LD-50
là
liều
duy
nhất
gây
chết
đến
50%
nhóm
tôm
thí
nghiệm.
RNAi
(RNA
can
thiệp)
chống
lại
WSSV
gồm
bốn
gen
vp26,
vp28,
wsv191
và
orf89.
được
sản
xuất
như
là
dsRNA,
sử
dụng
bộ
phiên
mã
đã
được
quy
định.
Phương
pháp
điều
trị
Các
nhà
khoa
học
đã
tiến
hành
thí
nghiệm
trên
các
nhóm
khác
nhau,
mỗi
nhóm
gồm
10
con
TTCT
đã
gây
nhiễm
WSSV
được
theo
dõi
trong
24h
và
được
nuôi
trong
bể
có
độ
mặn
25‰,
nhiệt
độ
25
±
20C,
sục
khí
liên
tục.
Mỗi
nhóm
được
tiêm
lần
lượt
vào
cơ
thể
với
một
trong
những
dsRNA
với
liều
4
µg.
Một
nhóm
10
con
TTCT
được
tiêm
với
liều
lượng
40
µl
dsRNA
của
vi
khuẩn
lacZ
và
được
sử
dụng
làm
nhóm
đối
chứng.
Một
nhóm
khác
gồm
10
con
tôm
được
điều
trị
bằng
40
µl
hệ
đệm
phosphat
và
sử
dụng
làm
đối
chứng
chuẩn.
Thí
nghiệm
được
lặp
lại
3
lần.
Sau
48h,
tất
các
con
tôm
nhiễm
WSSV
trong
bể
thí
nghiệm
tiếp
tục
được
tiêm
vào
cơ
thể
với
liều
cao
(2.500
SID50trong
50
µl).
Tôm
được
theo
dõi
để
ghi
lại
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
và
tỷ
lệ
chết
của
bệnh
với
tần
suất
2
lần/ngày
trong
vòng
10
ngày.
Số
lượng
tôm
gần
chết
và
chết
được
ghi
lại.
Sau
đó
được
lấy
ra
bể
thí
nghiệm
và
tiến
hành
lấy
mẫu
mô
nhiễm
WSSV
để
kiểm
tra.
Vào
cuối
thí
nghiệm,
những
con
tôm
sống
sót
được
sử
dụng
để
tách
chiết
RNA
và
phân
tích
PCR
với
WSSV.
Các
hiệu
quả
kháng
virus
của
dsRNA
khác
nhau
được
đánh
giá
bằng
tỷ
lệ
chết
và
số
lượng
tôm
bị
nhiễm
WSSV.
Hình
1:
Tỷ
lệ
tử
vong
ở
tôm
được
điều
trị
bằng
dsRNA
của
4
loại
gen
chống
lại
WSSV
so
với
nhóm
đối
chứng
sử
dụng
dsRNA
của
vi
khuẩn
LacZ
và
một
nhóm
không
bị
nhiễm
WSSV/không
được
điều
trị
bằng
dsRNA.
Các
kết
quả
Nhóm
thí
nghiệm
và
điều
trị
tôm
nhiễm
WSSV
bằng
dsRNA
của
vi
khuẩn
LacZ
là
nhóm
đầu
tiên
cho
thấy
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
ở
tôm
như
giảm
ăn,
bơi
lội
thất
thường,
lờ
đờ
sau
24h
tiêm.
Tỷ
lệ
chết
đầu
tiên
được
ghi
nhận
sau
36h,
và
tỷ
lệ
chết
100%
sau
108h,
tất
cả
tôm
xét
nghiệm
PCR
đều
cho
kết
quả
dương
tính
với
WSSV
(hình
1).
Đối
với
nhóm
được
sử
dụng
dsRNA
của
gen
vp28,
cho
thấy
tôm
chết
đầu
tiên
sau
72h
và
tỷ
lệ
tôm
sống
sót
còn
lại
là
7%.
Đối
với
nhóm
được
sử
dụng
dsRNA
của
gen
orf89,
cho
thấy
tôm
chết
sau
108h
và
tỷ
lệ
tôm
sống
sót
vào
cuối
thí
nghiệm
là
10%.
Đối
với
nhóm
được
sử
dụng
dsRNA
của
gen
vp26,
cho
thấy
tôm
chết
đầu
tiên
sau
84h
và
tỷ
lệ
tôm
sống
sót
vào
cuối
thí
nghiệm
là
21%.
Đối
với
nhóm
được
sử
dụng
dsRNA
của
gen
wsv191,
cho
thấy
tôm
chết
đầu
tiên
là
sau
24h
và
tỷ
lệ
tôm
sống
sót
vào
cuối
thí
nghiệm
là
83%.
Tất
cả
những
con
tôm
chết
đều
cho
kết
quả
kiểm
tra
PCR
dương
tính
với
WSSV.
Những
con
tôm
còn
sống
sót
không
hiển
thị
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
của
bệnh
WSSV
và
cho
kết
quả
âm
tính
với
WSSV
khi
xét
nghiệm
PCR.
Đáp
ứng
kháng
virus
Một
liều
dsRNA
duy
nhất
với
lượng
4µg/tôm
là
đủ
để
kích
hoạt
để
gây
ra
phản
ứng
chống
lại
virus
WSSV.
Với
các
kết
quả
thí
nghiệm
trên
có
thể
thấy,
hiệu
quả
của
việc
tiêm
dsRNA
giúp
ức
chế
sự
sao
chép
virus
và
giảm
tỷ
lệ
chết
ở
tôm
được
điều
trị.
Vào
cuối
thí
nghiệm,
hầu
hết
những
con
tôm
được
điều
trị
để
chống
lại
WSSV
bằng
sợi
RNA
mạch
kép
đều
sống
sót
và
có
tỷ
lệ
nhiễm
WSSV
thấp.
Ngược
lại,
tôm
được
điều
trị
bằng
chuỗi
RNA
mạch
kép
độc
lập
của
vi
khuẩn
LacZ
bị
nhiễm
WSSV
và
chỉ
sống
sót
được
trong
một
thời
gian
ngắn.
Tôm
được
điều
trị
với
dsRNA
của
vp28
và
vp26
có
khả
năng
chống
lại
được
virus
WSSV.
Do
gen
vp28
và
vp26
có
khả
năng
mã
hóa
các
protein
cấu
trúc
VP28
và
VP26,
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
cấu
trúc
và
khả
năng
lây
nhiễm
của
virus.
Khi
sử
dụng
RNA
mạch
kép
của
hai
gen
phi
định
hình
orf89
và
wsv191
để
chống
lại
WSSV
cho
thấy
rằng:
gen
orf89
đã
có
hiệu
quả
tương
tự
với
gen
cấu
trúc
vp28
trong
việc
làm
giảm
khả
năng
nhân
rộng
của
virus
và
giảm
tỷ
lệ
chết
ở
tôm.
Ngược
lại,
dsRNA
của
gen
wsv191
có
tác
dụng
chống
lại
virus
kém
nhất
trong
bốn
loại
gen
được
sử
dụng
trong
thí
nghiệm.
Kết
luận
Dựa
vào
các
chức
năng
mã
hóa
của
2
protein
vô
định
hình
có
thể
giúp
giải
thích
sự
khác
biệt
trong
hoạt
động
kháng
WSSV.
Gen
orf89
quy
định
việc
ngăn
chặn
quá
trình
sao
chép
của
virus
và
mã
hóa
protein
của
virus.
Vì
vậy,
gen
này
đóng
vai
trò
thiết
yếu
đến
khả
năng
nhiễm
và
nhân
rộng
virus
của
tôm.
Ngược
lại
gen
wsv191
không
phải
là
một
gen
thiết
yếu
trong
việc
nhân
rộng
WSSV,
mặc
dù
thực
tế
nó
có
thể
mã
hóa
hoạt
động
của
cả
DNAse
và
RNAse.
Sự
tác
động
của
nó
không
có
ý
nghĩa
đến
việc
ức
chế
sự
sao
chép
của
virus.
Tuy
nhiên,
do
tôm
không
có
hệ
miễn
dịch
đặc
hiệu
nên
việc
áp
dụng
nó
vào
thực
tiễn
sản
xuất
vẫn
còn
là
một
vấn
đề
gây
tranh
cãi
cho
các
nhà
khoa
học.
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam