Mặc
dù
sản
lượng
và
giá
trị
xuất
khẩu
tôm
sú
đang
bị
tôm
thẻ
chân
trắng
lấn
lướt,
thế
nhưng,
theo
nhiều
đánh
giá,
tiềm
năng
của
phân
khúc
tôm
sú
rất
rộng.
Tuy
nhiên,
để
hiện
thực
hóa
được
điều
này,
ngành
tôm
còn
rất
nhiều
điều
phải
làm.
Khả
quan
Theo
Hiệp
hội
Chế
biến
và
Xuất
khẩu
Thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
tính
đến
hết
tháng
10/2016,
giá
trị
xuất
khẩu
tôm
Việt
Nam
đạt
2,58
tỷ
USD,
tăng
5,2%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước;
trong
đó,
giá
trị
xuất
khẩu
tôm
sú
giảm
4,8%
và
tôm
thẻ
chân
trắng
tăng
11,3%
so
với
cùng
kỳ.
Mặc
dù
tôm
sú
lận
đận,
thế
nhưng
theo
đánh
giá
của
người
trong
cuộc,
đây
mới
chính
là
đối
tượng
có
tính
cạnh
tranh
tốt,
khả
năng
gia
tăng
xuất
khẩu
còn
lớn.Ông
Lê
Văn
Quang,
Chủ
tịch
HĐQT
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú,
cho
biết,
hiện
các
nước
xuất
khẩu
tôm
trên
thế
giới
sản
xuất
tôm
sú
với
tỷ
lệ
rất
thấp,
chẳng
hạn
Ấn
Độ
có
80%
nuôi
thẻ
chân
trắng,
chỉ
20%
tôm
sú;
Thái
Lan
97%
nuôi
thẻ
chân
trắng
và
3%
tôm
sú;
Indonesia
có
80%
tôm
thẻ
chân
trắng
và
20%
nuôi
tôm
sú.Trong
khi,
nhu
cầu
về
tôm
sú
trên
thế
giới,
tính
riêng
những
người
chỉ
ăn
tôm
sú
dù
giá
có
biến
động
(tăng)
cỡ
nào,
chiếm
khoảng
15
-
20%
thị
phần
của
toàn
ngành.
“Như
năm
nay,
do
nguồn
cung
tôm
sú
thiếu,
giá
tôm
sú
từ
cuối
tháng
6/2016
đến
nay
tăng
40%,
1
kg
tôm
sú
có
giá
cao
hơn
tôm
thẻ
chân
trắng
5
USD,
nhưng
người
ta
vẫn
ăn”,
ông
Quang
dẫn
chứng.
Với
xu
hướng
khả
quan
như
vậy,
nếu
giải
quyết
tốt
vấn
đề
giống
tôm
sú,
tức
khả
năng
phát
triển
sản
xuất
tốt
hơn
so
với
hiện
nay,
khi
đó
chỉ
cần
giá
tôm
sú
cao
hơn
tôm
thẻ
chân
trắng
1
USD/kg,
thì
hiệu
quả
của
tôm
sú
sẽ
vượt
trội
hơn
hẳn
và
thị
phần
tôm
sú
sẽ
tăng
lên
40
-
50%
thậm
chí
hơn,
ông
Quang
khẳng
định.
Chế
biến
tôm
tại
nhà
máy
của
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú
-
Ảnh:
Nguyệt
Nga
Khó
kiểm
soát
chất
lượng
Ông
Phạm
Anh
Tuấn,
nguyên
Phó
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Thủy
sản,
thừa
nhận,
với
khoảng
100
tỷ
con
tôm
giống
được
sản
xuất
ra
mỗi
năm,
ngành
tôm
giống
hoàn
toàn
có
thể
đáp
ứng
nhu
cầu
nuôi
trong
nước.
Nhưng
thực
tế
xét
về
chất
lượng
thì
thật
sự
không
ổn,
thậm
chí
phải
nói
là
chất
lượng
rất
kém.
Trong
khi
đó,
ông
Như
Văn
Cẩn,
Vụ
trưởng
Vụ
nuôi
trồng
Thủy
sản,
cho
biết
trên
thị
trường
có
quá
nhiều
chủng
loại
thức
ăn,
thuốc
thú
y
cũng
như
kháng
sinh,
chẳng
những
khiến
việc
kiểm
soát
chất
lượng
khó
khăn,
mà
tôm
thành
phẩm
sản
xuất
ra
cũng
thường
xuyên
có
vấn
đề.
Theo
thống
kê,
hiện
có
đến
2.800
loại
thức
ăn
hỗn
hợp;
3.800
sản
phẩm
thức
ăn
bổ
sung
và
2.800
chất
xử
lý
môi
trường.
Nuôi
tôm
bằng
con
giống
kém
chất
lượng
rất
dễ
dẫn
đến
bùng
phát
dịch
bệnh,
từ
đó
dẫn
đến
tình
trạng
lạm
dụng
kháng
sinh
để
tránh
bị
thiệt
hại.
Mặt
khác,
tại
các
thị
trường
hàng
đầu
về
nhập
khẩu
sản
phẩm
tôm
của
Việt
Nam
cũng
như
các
quốc
gia
khác
đều
nâng
cao
các
tiêu
chuẩn
về
an
toàn
thực
phẩm,
nghĩa
là
sản
phẩm
tôm
phải
hoàn
toàn
không
có
kháng
sinh
mới
được
xuất
hiện
tại
các
hệ
thống
phân
phối.
Chính
vì
vậy,
từ
khâu
sản
xuất
để
tạo
ra
sản
phẩm
xuất
khẩu,
Việt
Nam
phải
thay
đổi.
Tuy
nhiên,
thay
đổi
bằng
cách
nào
khi
chất
lượng
con
giống
chưa
được
giải
quyết
cũng
như
việc
có
quá
nhiều
các
chế
phẩm
hóa
chất
kháng
sinh
như
hiện
nay,
đó
thực
sự
là
một
vấn
đề
khó
tìm
câu
trả
lời
thỏa
đáng.
Ông
Huỳnh
Quốc
Tịnh,
Điều
phối
chương
trình
Nuôi
trồng
thủy
sản
và
thực
phẩm
của
Quỹ
bảo
vệ
thiên
nhiên
quốc
tế
(WWF)
cho
rằng,
cần
phải
có
cơ
chế
minh
bạch
trong
kiểm
tra
kháng
sinh,
chẳng
hạn,
tiền
ngân
sách
cho
kiểm
tra
vi
sinh,
kháng
sinh
phải
được
công
khai.
Cần
phải
có
những
nghiên
cứu
nuôi
tôm
bằng
con
giống
chất
lượng,
được
chứng
nhận,
và
tỷ
lệ
thành
công
như
thế
nào
so
với
tôm
không
có
chứng
nhận,
vì
đây
là
yếu
tố
quyết
định
để
loại
bỏ
cơ
sở
sản
xuất
giống
kém
chất
lượng.
>>
Vấn
đề
cần
giải
quyết
trước
khi
nghĩ
tới
tận
dụng
những
cơ
hội
gia
tăng
trong
xuất
khẩu
thời
gian
tới
là
phải
quản
lý
và
tạo
được
con
giống
chất
lượng
cũng
như
kiểm
soát
được
các
loại
hóa
chất
kháng
sinh
như
hiện
nay.
Nếu
không,
thì
cơ
hội
dù
có,
nhưng
chưa
chắc
đã
nắm
bắt
được.
Thủy
sản
Việt
Nam