Ảnh
hưởng
của
biến
đổi
khí
hậu,
thiếu
hụt
nguồn
vốn,
sản
xuất
nhỏ
lẻ...
khiến
nông
dân
nuôi
tôm
Việt
Nam
khó
bước
vào
các
thị
trường
khó
tính.
Anh
Trần
Trung
Kha
bật
chiếc
điện
thoại
thông
minh,
hình
ảnh
hiện
lên
những
cánh
đồng
lúa
được
ngăn
cách
với
nhau
bởi
các
ao
nước.
Theo
anh,
mô
hình
nuôi
tôm
lúa
áp
dụng
vài
năm
trở
lại
đây
tại
quê
hương
(xã
Hòa
Minh,
huyện
Châu
Thành,
tỉnh
Trà
Vinh)
mang
lại
giá
trị
cao.
Với
đặc
điểm
vùng
đất
cù
lao
sáu
tháng
nước
mặn
và
sáu
tháng
nước
ngọt
nên
khi
cho
tôm
ăn,
thức
ăn
rải
xuống
phân
hủy
thì
có
thể
tận
dụng
để
trồng
lúa
mà
không
cần
dùng
đến
phân
bón
hóa
học.
Ngược
lại,
khi
lúa
trồng
xong,
nước
mặn
về
,nông
dân
lấy
để
xử
lý
nuôi
tôm.
Tất
cả
như
một
chu
trình
và
hai
hình
thức
nông
nghiệp
hỗ
trợ
qua
lại,
giảm
thiểu
tác
động
môi
trường
và
mang
lại
hệ
sinh
thái
bền
vững.
Cách
đây
4
năm,
anh
Kha
quyết
định
chuyển
canh
tác
chủ
lực
từ
lúa
sang
tôm
bởi
nhìn
thấy
giá
trị
kinh
tế
cao.
Tuy
nhiên,
dù
lúa
không
mang
lại
năng
suất
cao,
anh
vẫn
giữ
lại
một
ít
để
tái
tạo
nền
đất
phục
vụ
cho
quá
trình
nuôi
tôm.
Đến
nay,
sau
tám
vụ
nuôi,
nông
dân
này
lãi
đến
bảy
và
chỉ
hòa
vốn
một
vụ.
Riêng
vụ
của
năm
ngoái,
anh
Kha
lời
được
gần
một
tỷ
đồng.
"Ở
đây
có
người
nuôi
một
hồ
4.000m2 mà
thu
nhập
trên
2
tỷ
đồng",
anh
nói.
Đó
là
một
trong
những
câu
chuyện
về
sự
hấp
dẫn
của
nghề
nuôi
tôm.
Con
số
thu
nhập
một
đến
hai
tỷ
đồng
mỗi
năm
khiến
nuôi
tôm
có
thể
biến
một
nông
dân
bình
thường
trở
thành
đại
gia
chỉ
trong
một
thời
gian
ngắn.
Tuy
nhiên,
xuất
khẩu
tôm
thương
phẩm
ra
thị
trường
nước
ngoài
lại
là
một
câu
chuyện
khác.
Rào
cản
"sân
khách"
Seafood
Watch
-
tổ
chức
được
bộ
Thương
mại
Mỹ
ủy
quyền
trong
việc
kiểm
định,
giám
sát,
đánh
giá
chất
lượng
thủy
sản
trước
khi
xuất
khẩu
vào
thị
trường
này
triển
khai
công
việc
của
mình
tại
khắp
các
quốc
gia.
Vì
bảo
vệ
quyền
lợi
cho
người
tiêu
dùng
Mỹ,
họ
thực
hiện
việc
đánh
giá
độc
lập
dù
có
được
mời
hay
không.
Bảng
xếp
hạng
là
căn
cứ
để
người
tiêu
dùng
đánh
giá
độ
an
toàn
của
thủy
sản
và
đưa
ra
các
quyết
định
mua
hàng.
Các
mức
đánh
giá
được
hiển
thị
theo
màu,
với
mức
độ
từ
thấp
đến
cao
gồm
đỏ,
vàng
và
xanh.
Trong
đó,
màu
đỏ
được
khuyến
cao
nên
tránh,
màu
vàng
tương
ứng
với
tốt
và
màu
xanh
được
xem
là
lựa
chọn
tốt
nhất.
Vào
năm
2018,
Seafood
Watch
tiến
hành
khảo
sát
214
đối
tác
doanh
nghiệp
Mỹ
để
hiểu
rõ
hơn
lý
do
họ
cam
kết
sử
dụng
hải
sản
bền
vững.
Kết
quả
cho
thấy
mong
muốn
của
khách
hàng
là
lý
do
chính.
Kỳ
vọng
này
dựa
trên
phản
hồi
tự
nhiên
của
khách
hàng
và
mạng
xã
hội
chứ
không
phải
từ
việc
đo
lường
một
cách
có
hệ
thống
nhu
cầu
khách
hàng.
Theo
ông
Josh
Madeira
-
Phụ
trách
chính
sách
bảo
tồn
biển,
Monterey
Bay
Aquarium
từ
Seafood
Watch,
trên
90%
thị
trường
bán
lẻ
Bắc
Mỹ
và
75%
thị
trường
bán
lẻ
châu
Âu
yêu
cầu
hải
sản
bền
vững
với
môi
trường.
Tài
liệu
về
tiêu
chuẩn
tôm
được
Hợp
tác
cải
thiện
thủy
sản
châu
Á
xây
dựng
cho
thấy,
tiêu
chuẩn
tại
trại
tôm
bao
gồm
khả
năng
truy
xuất
nguồn
gốc,
quản
lý
sức
khỏe
tôm,
nguồn
lợi
thủy
sản,
nguồn
thức
ăn
-
quản
lý
thức
ăn
và
quản
lý
tác
động
môi
trường.
Cụ
thể,
khả
năng
truy
xuất
nguồn
gốc
là
khả
năng
theo
dõi
sự
di
chuyển
tôm
sau
khi
thu
hoạch
hoặc
khả
năng
theo
dõi
vật
tư
đầu
vào
như
thức
ăn
và
con
giống
qua
mỗi
giai
đoạn
sản
xuất
cụ
thể.
Đây
là
hợp
phần
rất
quan
trọng
khi
thực
hiện
các
hoạt
động
nâng
cao
tính
bền
vững.
Quản
lý
sức
khỏe
tôm
chú
trọng
tối
ưu
hóa
sức
khỏe,
giảm
thiểu
căng
thẳng,
giảm
nguy
cơ
nhiễm
bệnh
cho
tôm
và
duy
trì
môi
trường
nuôi
lành
mạnh
ở
tất
cả
các
giai
đoạn
của
chu
kỳ
để
giảm
thiểu
tác
động
của
bệnh
đến
môi
trường.
Nguồn
lợi
thủy
sản
đề
cập
tới
việc
sử
dụng
các
loài
tôm
trong
sản
xuất
và
đảm
bảo
rằng
tôm
được
sử
dụng
là
loài
có
nguồn
bền
vững.
Nguồn
thức
ăn
và
quản
lý
thức
ăn
chú
trọng
đến
tính
bền
vững
và
hiệu
quả
sử
dụng
nguồn
cá
tự
nhiên
trong
thức
ăn
nuôi
tôm
có
thể
xác
minh
được
tại
trại
nuôi.
Ngoài
ra,
tiêu
chuẩn
cũng
quản
lý
các
tác
động
đến
đa
dạng
sinh
học
do
vận
hành
trại
nuôi
tôm
có
thể
gây
nên
do
các
hoạt
động
như
thiết
lập
trại
nuôi,
kiểm
soát
động
vật
ăn
thịt
hoặc
chất
lượng
nước
xả
thải.
Hầu
hết
các
thị
trường
lớn
và
trọng
điểm
về
nhập
khẩu
tôm
đều
chú
trọng
các
yếu
tố
này.
Tuy
nhiên,
đa
phần
nông
dân
Việt
Nam
đều
khá
mơ
hồ
về
các
tiêu
chuẩn.
Hiện
nay,
nhiều
người
bắt
đầu
rút
lui
khỏi
ngành
tôm
do
những
tác
động
vài
năm
trở
lại
đây
của
biến
đổi
khí
hậu
và
giá
cả
trồi
sụt.
Điệp
khúc
"được
giá
mất
mùa,
được
mùa
mất
giá"
thường
xuyên
nhắc
đi
nhắc
lại
trong
các
cuộc
bàn
luận
và
hiến
kế
để
tôm
Việt
bứt
phá.
Tìm
hướng
phát
triển
bền
vững
Ông
Trần
Hữu
Mai
thả
nuôi
tôm
từ
năm
2001
tại
xã
Lưu
Tú,
huyện
Trần
Đề,
tỉnh
Sóc
Trăng.
Thời
trước,
có
vụ
ông
thu
vài
tỷ
đồng
là
chuyện
thường
nhưng
bây
giờ
lại
đối
mặt
với
khoản
nợ
vài
tỷ
đồng
cũng
từ
nuôi
tôm.
Trong
gần
hai
thập
kỷ
theo
đuổi
ngành
này,
ông
chứng
kiến
nhiều
biến
động
của
thị
trường.
Năm
2004,
Bộ
Thương
mại
Mỹ
khởi
xướng
điều
tra
áp
thuế
chống
bán
phá
giá
với
tôm
đông
lạnh
của
Việt
Nam,
nhiều
nông
dân
lao
đao
bởi
không
chỉ
ảnh
hưởng
đến
xuất
khẩu
mà
giá
tôm
trong
nước
sụt
xuống
còn
50.000-70.000
đồng
một
kg
trong
khi
trước
đó
có
thời
điểm
trên
130.000
đồng
một
kg.
Năm
2008,
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu
khiến
các
ngân
hàng
đồng
loạt
nâng
lãi
suất,
có
thời
điểm
lên
đến
17-20%
một
năm.
Những
năm
tiếp
theo
liên
tục
xảy
ra
các
dịch
bệnh,
nông
dân
phải
chuyển
sang
nuôi
tôm
thẻ
thay
vì
tôm
sú
nhưng
mất
gần
7-8
năm
để
nắm
quy
trình
và
nuôi
thành
công.
Những
ảnh
hưởng
của
biến
đổi
khí
hậu
tiếp
nối
thách
thức
với
người
nuôi
tôm.
"Nếu
thành
công
thì
lời
nhiều
nhưng
rủi
ro
thì
rất
cao.
Trong
khi
đó,
nếu
ứng
dụng
công
nghệ
thì
phải
đầu
tư
đến
hàng
tỷ
đồng,
không
phải
ai
cũng
có
tiền
mà
bỏ
ra",
ông
Mai
nói.
Cũng
như
nhiều
nông
hộ
khác,
ông
dùng
thuốc
cho
người
để
chữa
bệnh
cho
tôm
vì
không
tin
tưởng
những
loại
thuốc
cho
thủy
sản.
Mỗi
ngày
người
nông
dân
này
chi
đến
20
triệu
đồng
tiền
thức
ăn
cho
tôm,
các
chi
phí
khác
cộng
dồn
đội
lên
trong
khi
giờ
đây
chỉ
hoàn
toàn
bơi
bằng
vốn
tự
thân,
vì
vậy
dẫn
đến
những
khoản
nợ
chất
chồng.
Bài
toán
của
người
nông
dân
không
dừng
lại
ở
những
yếu
tố
về
thời
tiết,
môi
trường
hay
thị
trường
tài
chính,
nguồn
vốn...
mà
còn
đến
từ
nguồn
vật
tư
đầu
vào
và
xuyên
suốt
quá
trình
nuôi
tôm.
Ông
Quách
Hồng
Phong,
Tổng
giám
đốc
công
ty
TNHH
nuôi
tôm
Vĩnh
Thuận,
tỉnh
Sóc
Trăng
cũng
cho
rằng
thức
ăn,
con
giống...
ở
Việt
Nam
hiện
có
giá
cao
và
chưa
có
sự
đồng
nhất.
Trong
khi
đó,
trên
thị
trường
vẫn
xuất
hiện
nhan
nhản
các
loại
thức
ăn,
con
giống
và
thuốc
giả,
khiến
nhiều
nông
dân
lao
đao.
Tại
hội
thảo
vừa
tổ
chức
tại
tỉnh
Cà
Mau,
một
đại
biểu
cho
biết
cái
khó
của
ngành
tôm
là
kinh
phí,
nguồn
vốn
phục
vụ
cho
sản
xuất
bởi
rất
ít
ngân
hàng
cho
vay.
Mặt
khác,
việc
nuôi
tôm
hiện
nay
dừng
ở
mức
manh
mún
và
nhỏ
lẻ.
Ông
Lê
Văn
Quang
-
Chủ
tịch
HĐQT
kiêm
Tổng
giám
đốc
tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú
cho
biết
giá
tôm
Việt
luôn
cao
hơn
các
quốc
gia
cạnh
tranh
trên
thị
trường
như
Ấn
Độ,
Indonesia
hay
Ecuador.
Theo
ông,
muốn
bán
được
hàng
phải
truy
xuất
nguồn
gốc
và
có
số
lượng
lớn.
Tuy
nhiên,
để
thâm
nhập
các
thị
trường
nước
ngoài
phải
đạt
được
chứng
nhận
trong
khi
mỗi
thị
trường
có
một
chứng
nhận
riêng,
cần
phải
có
nguồn
kinh
phí
lớn
để
thực
hiện
các
đánh
giá
này.
Một
trong
các
giải
pháp
được
Seafood
Watch
khuyến
cáo
là
mô
hình
chuỗi
tôm
với
sự
tham
gia
của
tất
cả
các
doanh
nghiệp
trong
ngành.
Ở
đó,
khách
hàng
tạo
nhu
cầu
thị
trường,
doanh
nghiệp
mua
hàng
từ
nguồn
cung
đảm
bảo
bền
vững
môi
trường,
nhà
sản
xuất
cải
thiện
quy
trình
và
Chính
phủ
hoàn
thiện
quy
định.
Tổ
chức
từ
Mỹ
gợi
ý
không
nhất
thiết
cả
ngành
tôm
của
một
quốc
gia
phải
tham
dự
thì
mới
đạt
hiệu
quả
mà
điều
này
có
thể
thực
hiện
trong
phạm
vi
nhóm
nhỏ
những
đơn
vị
cam
kết
với
các
tiêu
chuẩn
bền
vững.
Tuy
nhiên,
mỗi
ngày
mới
của
nhiều
người
nông
dân
như
ông
Mai
hiện
nay
bắt
đầu
bằng
câu
hỏi
"Làm
sao
để
có
tiền
mua
thức
ăn
cho
tôm",
biến
đổi
khí
hậu
và
dịch
bệnh
là
nỗi
lo
thường
trực.
Một
khi
nông
dân
còn
đau
đáu
những
câu
hỏi
ấy
thì
bài
toán
lớn
của
cả
một
nền
nông
nghiệp
khi
tôm
Việt
đang
xếp
hạng
thấp
nhất
với
màu
đỏ
từ
Seafood
Watch
không
phải
là
mối
quan
tâm
hàng
đầu.
Theo
VnExpress