Theo
Hiệp
hội
Chế
biến
và
Xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
xuất
khẩu
tôm
tiếp
tục
tăng
trưởng
mạnh
trong
năm
2017,
kim
ngạch
xuất
khẩu
ước
đạt
3,8
tỷ
USD,
tăng
22%
so
với
năm
2016.
Điều
này
cho
thấy
sự
nỗ
lực
của
các
doanh
nghiệp
trong
bối
cảnh
thị
trường
diễn
biến
phức
tạp.
Với
đà
tăng
trưởng
như
hiện
nay,
VASEP
cũng
dự
báo
xuất
khẩu
tôm
sẽ
tiếp
tục
tăng
trưởng
tích
cực
trong
thời
gian
tới,
nhất
là
ở
một
số
thị
trường
như
EU,
Trung
Quốc,
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc...
“Thắng
lớn”
ở
thị
trường
EU
Theo
VASEP,
trong
năm
2017,
ngành
tôm
được
xem
là
thắng
lợi
lớn
tại
thị
trường
EU.
Trong
11
tháng
năm
2017,
xuất
khẩu
tôm
sang
thị
trường
này
đạt
trên
780
triệu
USD,
tăng
42,4%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Với
kết
quả
này,
EU
vươn
lên
là
thị
trường
nhập
khẩu
lớn
nhất
tôm
Việt
Nam,
chiếm
22,2%
tổng
giá
trị
xuất
khẩu
tôm
Việt
Nam.
Tính
riêng
ở
các
thị
trường
đơn
lẻ
trong
khối
EU,
Hà
Lan
hiện
là
thị
trường
nhập
khẩu
lớn
nhất
tôm
Việt
Nam.
Trong
3
thị
trường
nhập
khẩu
chính
tôm
Việt
Nam
trong
khối
EU
(Hà
Lan,
Anh
và
Đức),
xuất
khẩu
sang
Hà
Lan
tăng
mạnh
nhất
70,5%
đạt
199,7
triệu
USD;
tiếp
đó
là
Anh
và
Đức
lần
lượt
có
tốc
độ
tăng
54,5%
và
5,9%.
Theo
ông
Trương
Đình
Hòe,
Tổng
thư
ký
VASEP,
xuất
khẩu
tôm
sang
EU
tăng
mạnh
trong
năm
2017
chủ
yếu
là
do
có
lợi
thế
hơn
so
với
một
số
đối
thủ
cung
cấp
khác
nhờ
có
mức
thuế
GSP
thấp.
Hiện
tại,
theo
hệ
thống
ưu
đãi
thuế
quan
phổ
cập
(GSP)
mà
EU
dành
cho
Việt
Nam
đối
với
tôm
nguyên
liệu
đông
lạnh
(mã
HS
030617)
là
4,2%;
tôm
chế
biến
đông
lạnh
(HS
160521)
là
7%.
Trong
khi
đó,
Thái
Lan
và
Trung
Quốc
lại
không
được
hưởng
GSP
của
EU.
Thêm
vào
đó,
trên
thị
trường
EU,
tôm
Việt
cũng
phải
cạnh
tranh
chính
với
tôm
Ấn
Độ
và
Ecuador.
Tuy
nhiên,
Ấn
Độ
có
xu
hướng
giảm
xuất
khẩu
tôm
cho
EU,
do
bị
dính
kháng
sinh
và
đối
mặt
với
nguy
cơ
EU
cấm
nhập
khẩu
nên
tôm
Việt
Nam
được
lựa
chọn
thay
thế.
Về
phía
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu,
để
được
hưởng
thuế
suất
ưu
đãi
từ
EU,
các
doanh
nghiệp
mua
tôm
nguyên
liệu
trong
nước
dù
giá
cao
hơn.
Để
tăng
lợi
nhuận,
các
doanh
nghiệp
đã
tập
trung
đầu
tư
làm
hàng
chế
biến
sâu
nhằm
gia
tăng
giá
trị
khi
xuất
khẩu.
Theo
các
doanh
nghiệp,
giá
trị
xuất
khẩu
tôm
Việt
Nam
sang
EU
khá
tích
cực
là
do
người
tiêu
dùng
EU
ưa
chuộng
các
sản
phẩm
thủy
sản
giá
trị
gia
tăng
tiện
lợi
và
tăng
nhập
khẩu
để
phục
vụ
nhu
cầu
các
lễ
hội
cuối
năm.
Trong
khi
đó,
nguồn
tôm
nước
lạnh
lại
đang
có
giá
cao
và
nguồn
cung
giảm
nên
EU
tăng
cường
nhập
khẩu
tôm
từ
Việt
Nam.
Ngoài
EU,
xuất
khẩu
tôm
sang
Trung
Quốc
cũng
có
mức
tăng
tới
60,2%
đạt
637,9
triệu
USD
trong
11
tháng
năm
2017.
Trong
khi
đó,
xuất
khẩu
tôm
sang
Mỹ
lại
giảm
7,8%
so
với
cùng
kỳ
năm
2016.
Sự
sụt
giảm
này
chủ
yếu
là
do
thuế
chống
bán
phá
giá
trong
POR11
tăng
cao.
Bên
cạnh
đó,
Ấn
Độ
đẩy
mạnh
xuất
khẩu
tôm
sang
Mỹ
để
bù
đắp
sự
sụt
giảm
ở
các
thị
trường
chính
khác
khiến
thị
phần
tôm
Việt
Nam
trên
thị
trường
Mỹ
sụt
giảm.
Nhiều
tín
hiệu
tích
cực
Theo
ước
tính
của
các
doanh
nghiệp,
với
giá
trị
kim
ngạch
như
hiện
nay,
để
xuất
khẩu
tôm
đạt
10
tỷ
USD
vào
năm
2025
thì
tốc
độ
tăng
trưởng
xuất
khẩu
của
ngành
này
phải
đạt
ít
nhất
từ
12-15%/năm.
Để
đạt
được
mục
tiêu
trên,
các
doanh
nghiệp
đang
tập
trung
đẩy
mạnh
sản
xuất
và
xuất
khẩu,
nhất
là
sản
xuất
các
sản
phẩm
chế
biến
sâu,
linh
hoạt
xuất
khẩu
sang
các
thị
trường
lớn
đang
có
nhu
cầu
nhập
khẩu
tôm.
Với
đà
tăng
trưởng
như
hiện
nay,
VASEP
cũng
dự
báo
xuất
khẩu
tôm
sẽ
tiếp
tục
tăng
trưởng
tích
cực
trong
thời
gian
tới,
nhất
là
ở
một
số
thị
trường
như
EU,
Trung
Quốc,
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc...
Đáng
chú
ý,
tại
thị
trường
Trung
Quốc,
sản
lượng
sản
xuất
tôm
nội
địa
của
nước
này
sụt
giảm
do
dịch
bệnh
và
mưa
lũ.
Trong
khi
đó,
nhu
cầu
trong
nước
ngày
càng
tăng,
do
tầng
lớp
trung
lưu
và
lượng
khách
du
lịch
tăng
khiến
gia
tăng
nhu
cầu
tiêu
thụ
hải
sản,
nhất
là
mặt
hàng
tôm
ở
các
nhà
hàng.
Kèm
theo
đó,
kể
từ
ngày
1/12/2017,
xuất
khẩu
tôm
sang
Trung
Quốc
có
lợi
thế
hơn
khi
nước
này
quyết
định
giảm
thuế
nhập
khẩu
từ
5%
xuống
2%
đối
với
sản
phẩm
tôm
đông
lạnh.
Với
đà
tăng
trưởng
như
hiện
nay,
Trung
Quốc
có
khả
năng
vượt
qua
Nhật
Bản
để
trở
thành
thị
trường
nhập
khẩu
lớn
thứ
hai
của
tôm
Việt
Nam
trong
Quý
I/2018.
Mặt
khác,
theo
VASEP,
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
Việt
Nam
–
EU
(EVFTA)
dự
kiến
có
hiệu
lực
trong
năm
2018
sẽ
tạo
nhiều
thuận
lợi
cho
xuất
khẩu
tôm.
Theo
lộ
trình
cam
kết,
khi
EVFTA
có
hiệu
lực,
thuế
xuất
khẩu
tôm
mã
HS
03061100
(tôm
hùm
xanh
ướp
đá;
tôm
sú
HOSO,
DP
đông
lạnh;
tôm
mũ
ni
vỏ…)
sang
EU
sẽ
về
0%
thay
vì
mức
hiện
tại
12,5%;
thuế
sản
phẩm
tôm
mã
HS
03061710
(tôm
sú
tươi
đông
lạnh,
tôm
sú
thịt
đông
lạnh,
tôm
thẻ
thịt
đông
lạnh…)
cũng
về
0%
từ
mức
20%
hiện
nay.
Đối
với
sản
phẩm
tôm
chế
biến,
tôm
mã
HS
16052110
(tôm
dạng
bột
nhão)
và
tôm
mã
HS
16052190
(tôm
khác)
sẽ
được
điều
chỉnh
từ
mức
20%
hiện
nay
về
0%
sau
7
năm
kể
từ
khi
Hiệp
định
có
hiệu
lực.
Dù
có
nhiều
thuận
lợi,
tuy
nhiên
bước
sang
năm
2018,
dự
báo
ngành
hàng
này
sẽ
gặp
không
ít
khó
khăn,
thách
thức,
kể
cả
vấn
đề
số
lượng
và
chất
lượng
tôm.
Với
tình
hình
thời
tiết
thất
thường
như
hiện
nay,
rủi
ro
về
thời
tiết
và
dịch
bệnh
vẫn
là
nguy
cơ
lớn
đối
với
sản
xuất
tôm.
Theo
ông
Hồ
Quốc
Lực,
Tổng
Giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Thực
phẩm
Sao
Ta,
vấn
đề
thách
thức
nhất
hiện
nay
của
ngành
tôm
Việt
Nam
vẫn
là
đa
phần
sản
xuất
có
quy
mô
nuôi
nhỏ
lẻ,
dẫn
đến
việc
truy
xuất
nguồn
gốc
còn
nhiều
khó
khăn.
Trong
khi
đó,
năm
2018,
toàn
bộ
các
thị
trường
nhập
khẩu
tôm
Việt
Nam
đều
“đặt
nặng”
vấn
đề
an
toàn
thực
phẩm
và
truy
xuất
nguồn
gốc
sản
phẩm,
nhất
là
Chương
trình
giám
sát
thủy
sản
nhập
khẩu
vào
Mỹ
(SIMP)
có
hiệu
lực
từ
đầu
năm
nay.
Để
đảm
bảo
vấn
đề
an
toàn
thực
phẩm,
các
nhà
máy
thường
phải
tốn
thêm
chi
phí
kiểm
tra
chất
lượng
nguyên
liệu
đầu
vào,
khiến
giá
thành
sản
phẩm
tăng
lên,
các
doanh
nghiệp
Việt
khó
cạnh
tranh
với
các
nguồn
cung
tôm
khác.
Trong
bối
cảnh
đó,
việc
kiểm
soát
chất
lượng,
xây
dựng
vùng
nguyên
liệu
đạt
chuẩn
quốc
tế
vẫn
là
những
vấn
đề
mà
ngành
tôm
cần
tập
trung
thực
hiện
để
khắc
phục
điểm
yếu,
từ
đó
giúp
doanh
nghiệp
có
thể
tăng
tốc
xuất
khẩu
trong
năm
2018.
Theo
TTXVN