Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(Early
Mortality
Syndrome
-
EMS)
còn
gọi
là
Hội
chứng
hoại
tử
gan
tụy
cấp
(Acute
Hepatopancreatic
Necrosis
Syndrome
-
AHPNS)
làm
cho
cả
tôm
sú
lẫn
tôm
thẻ
chân
trắng
chết
hàng
loạt.
Bệnh
gây
thiệt
hại
lớn
cho
ngành
nuôi
tôm
thế
giới
trong
năm
qua.
Bệnh
nguy
hiểm
Bệnh
xuất
hiện
đầu
tiên
ở
miền
Nam
Trung
Quốc
năm
2009
và
lan
rộng
đến
các
nước
ASEAN
như
Việt
Nam
(2010),
Malaysia,
Thái
Lan
(2011)…
Đến
2013,
dịch
bệnh
tôm
chết
sớm
đã
lan
rộng
sang
các
nước
ở
Nam
Mỹ
(Mexico).
Sự
bùng
phát
và
lây
lan
nhanh
chóng
của
dịch
bệnh
khắp
thế
giới
đã
buộc
các
cơ
quan
nghiên
cứu
đầu
ngành
về
bệnh
tôm,
các
cơ
quan
chức
năng
ở
các
quốc
gia
có
vùng
dịch,
các
doanh
nghiệp,
trường
đại
học,
tổ
chức…
liên
kết
lại
để
tìm
ra
nguyên
nhân
gây
bệnh.
Tại
Việt
Nam,
Bộ
NN&PTNT,
Tổ
chức
Sức
khỏe
Động
vật
Thế
giới
(OIE),
các
tổ
chức
quốc
tế
(World
Bank,
FAO,
Global
Aquaculture
Alliance)
cùng
một
số
doanh
nghiệp
đã
phối
hợp
với
các
chuyên
gia
đến
từ
trường
Đại
học
Arizona
(Mỹ)
do
GS.
Donal
Lightner
làm
trưởng
đoàn.
Sau
3
năm
nghiên
cứu
(2011
-
2013),
nhóm
chuyên
gia
đã
phân
lập
được
tác
nhân
gây
bệnh
chính
Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(EMS)
ở
tôm
là
do
vi
khuẩnVibrio
parahaemolyticus gây
ra.
Thái
Lan
là
nước
chịu
ảnh
hưởng
nặng
bởi
dịch
bệnh
EMS
-
Ảnh:
Kurtzjoch.photoshelter.com
Việc
phân
lập
được
tác
nhân
gây
bệnh
ở
tôm
là
vi
khuẩn Vibrio
parahaemolyticus là
một
thành
công
lớn
trong
nghiên
cứu
bệnh
tôm
trên
thế
giới.
Tuy
nhiên,
việc
điều
trị
bệnh
EMS
cho
đến
nay
gặp
rất
nhiều
khó
khăn
bởi
lịch
sử
ngành
bệnh
học
tôm
cho
thấy
việc
điều
trị
sau
khi
bệnh
đã
xảy
ra
là
rất
khó,
do
tôm
không
có
hệ
miễn
dịch
đặc
hiệu;
sau
khi
mắc
bệnh
tôm
thường
bỏ
ăn
nên
không
đưa
thuốc
vào
được;
và
thường
khi
mắc
bệnh,
tôm
chết
rất
nhanh
nên
khó
có
thể
điều
trị
kịp.
Ngoài
ra,
các
vấn
đề
quan
ngại
cho
sức
khỏe
người
tiêu
dùng
ở
các
nước
nhập
khẩu
tôm
như
dư
lượng
kháng
sinh,
hóa
chất
cấm…
khiến
việc
lựa
chọn
phương
pháp
điều
trị
bệnh
tôm
là
rất
hạn
chế.
Đối
với
bệnh
EMS,
các
nghiên
cứu
cho
thấy
rằng:
Sau
khi
bị
nhiễm
mầm
bệnh,
tôm
có
thể
chết
rất
nhanh,
có
khi
chỉ
sau
khi
tiếp
xúc
với
mầm
bệnh
chưa
đầy
12
tiếng,
tôm
bệnh
trở
thành
nguồn
lây
cho
các
con
tôm
khỏe
khác
trong
đàn
qua
đường
nước,
phân
và
cả
xác
tôm
chết,
làm
cho
bệnh
lan
nhanh.
Đây
cũng
là
lý
do
một
khi
đàn
tôm
đã
nhiễm
bệnh
thì
việc
cứu
chữa
là
rất
khó
khăn
và
ít
hiệu
quả.
Chưa
kể
đến
việc
các
chủng
thuộc
vi
khuẩn Vibrio
parahaemolyticus gây
bệnh
EMS
có
tính
kháng
kháng
sinh
rất
cao,
đó
cũng
là
những
khó
khăn
trong
quá
trình
điều
trị
triệt
để
loại
bệnh
này.
Giải
pháp
phòng
ngừa
chủ
động
Sau
đây
là
một
số
khuyến
nghị
các
các
giải
pháp
phòng
ngừa
chủ
động
dựa
trên
cơ
sở
hiểu
biết
đặc
điểm
của
mầm
bệnh
và
đường
lây
lan,
động
thái
học
của
mầm
bệnh,
các
tương
tác
của
mầm
bệnh
với
vật
chủ
và
môi
trường:
1.
Đảm
bảo
con
giống
sạch
bệnh
Đóng
vai
trò
then
chốt
trong
việc
hạn
chết
dịch
bệnh
ở
tôm.
Nghiên
cứu
Trung
tâm
Nghiên
cứu
Thủy
sản
Thái
Lan
(ABRC
-
Aquaculture
Business
Research
Center)
cho
thấy:
EMS
trên
tôm
nuôi
khác
nhau
tùy
thuộc
và
chất
lượng
tôm
giống.
Nếu
gan
tụy
của
tôm
giống
có
màu
trắng
đục
(Whitish)
và
không
có
chất
béo
(Fat
lipid)
thì
những
con
giống
này
thường
nhiễm Vibrio với
mật
độ
107
khuẩn
lạc/g
trước
khi
thả
vào
ao
nuôi
và
là
nguyên
nhân
gây
chết
tôm
sau
20
ngày
thả.
Với
những
con
tôm
nhiễm
bệnh
có
mật
độ
khuẩn
lạc
vào
khoảng
104
-
105
khuẩn
lạc/g
hệ
gan
tụy
sẽ
có
màu
nâu
hoặc
trắng,
thời
gian
đầu,
những
con
tôm
này
trông
bình
thường
nhưng
thực
ra
chúng
rất
yếu
và
không
hoạt
động
tốt.
Do
vậy,
việc
lựa
chọn
tôm
giống
sạch
bệnh
là
khâu
then
chốt
trong
chủ
động
phòng
tránh
nhiễm
bệnh
EMS
theo
cả
con
đường
lây
ngang
và
lây
dọc
của
dịch
bệnh.
Gan
tụy
tôm
hoại
tử
khi
bị
nhiễm
EMS
-
Ảnh:
Trần
Lộc
2.
Quản
lý
ao
Mặc
dù
chưa
có
cơ
sở
khẳng
định
về
việc
bùng
phát
dịch
bệnh
EMS
liên
quan
đến
các
yếu
tố
môi
trường
ao
nuôi
như
pH,
nhiệt
độ,
độ
trong,
độ
mặn…
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế
tại
Việt
Nam,
dịch
bệnh
thường
bùng
phát
vào
những
thời
điểm
thời
tiết
thay
đổi
theo
hướng
nhiệt
độ
và
độ
mặn
tăng
cao,
độ
trong
của
ao
nuôi
giảm
thấp
(dưới
30
cm).
Do
vậy,
việc
chủ
động
quản
lý
ao
nuôi
thông
qua
các
bước
chuẩn
bị
ao
nuôi
đúng
quy
trình,
trại
nuôi
có
ao
lắng
đúng
quy
cách,
áp
dụng
các
biện
pháp
an
toàn
sinh
học;
có
các
biện
pháp
cắt
mầm
bệnh
đối
với
các
ao
nuôi
đã
từng
xuất
hiện
bệnh
thông
qua
việc
luân
canh
và
đa
canh,
có
thời
gian
phơi
và
cày
đáy
ao
đủ
lâu
giữa
các
vụ
nuôi,
luân
canh
tôm
-
lúa,
tôm
-
cá,
đa
canh
với
cá
hoặc
nuôi
cá
trong
ao
lắng,
thực
hiện
các
thực
hành
nuôi
tốt...
có
tầm
quan
trọng
trong
hạn
chế
dịch
bệnh
bùng
phát
và
khả
năng
lây
lan
nguồn
bệnh.
3.
Nuôi
tôm
kết
hợp
cá
rô
phi
Các
nghiên
cứu
về
việc
nuôi
tôm
kết
hợp
với
nuôi
cá
rô
phi
để
ổn
định
môi
trường
ao
nuôi
đã
góp
phần
hạn
chế
sự
bùng
phát
và
lây
lan
dịch
bệnh
EMS
trong
suốt
vụ
nuôi.
Kết
quả
nghiên
cứu
nuôi
kết
hợp
tôm
và
cá
rô
phi
đã
chỉ
ra:
Cá
rô
phi
giúp
thiết
lập
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
trong
nước
ao
với
các
quần
thể
tảo
và
vi
khuẩn
cân
bằng.
Trong
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
cân
bằng
như
vậy,
vi
khuẩn
gây
bệnh
ít
có
cơ
hội
phát
triển
đến
đủ
mật
độ
có
thể
gây
bệnh
cho
tôm.
Sự
hiện
diện
của
cá
rô
phi
còn
giúp
cho
các
biến
động
lớn
về
hệ
vi
sinh
này
ít
xảy
ra.
Một
khi
hệ
vi
sinh
trong
ao
có
sự
biến
động
lớn
như
hiện
tượng
sụp
tảo
trong
ao
thì
khả
năng
vi
khuẩn
gây
bệnh
bùng
phát
để
gây
bệnh
trên
tôm
là
rất
lớn.
Nếu
cá
rô
phi
thả
trong
ao
nuôi
chung
với
tôm
ở
một
mật
độ
thấp
vừa
phải
thì
nó
có
tác
dụng
diệt
tảo
đáy,
làm
sạch
đáy
ao,
ăn
các
con
tôm
bệnh
chết
giúp
giảm
sự
lan
truyền
của
bệnh...
Một
số
loài
cá
khác
cũng
có
thể
có
một
phần
tác
dụng
tương
tự
như
cá
rô
phi.
Ngoài
ra,
ứng
dụng
công
nghệ
biofloc
là
một
công
nghệ
nuôi
có
nhiều
tiềm
năng,
nhưng
đòi
hỏi
đầu
tư,
kỹ
thuật,
và
kiến
thức
cao.
Nếu
ứng
dụng
thành
công,
hiệu
quả
sẽ
rất
lớn.
Tuy
nhiên,
không
phải
ai
cũng
có
đủ
điều
kiện
đầu
tư
ứng
dụng
công
nghệ
này.
Về
cơ
chế
tác
dụng
của
biofloc
gần
giống
việc
nuôi
cá
rô
phi
trong
ao
ở
đặc
điểm
hệ
thống
biofloc
tạo
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
vật
dày
đặc
trong
nước.
Ở
điều
kiện
đó,
vi
khuẩn
gây
bệnh
khó
có
thể
phát
triển
đủ
mật
độ
gây
bệnh.
Liên
kết
chặt
giữa
trại
sản
xuất
giống
và
vùng
nuôi
Việc
hình
thành
chuỗi
liên
kết
cung
ứng
tôm
bền
vững,
trong
đó
có
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
trại
sản
xuất
giống
và
vùng
nuôi
với
các
cơ
sở
nghiên
cứu
khoa
học,
đảm
bảo
sản
xuất
và
cung
cấp
tôm
giống
theo
hướng
loại
bỏ
mầm
bệnh
EMS
và
các
mầm
bệnh
khác
trước
khi
đến
trại
nuôi;
công
tác
hỗ
trợ
kỹ
thuật
để
phòng
bệnh
tại
vùng
nuôi
theo
hướng
an
toàn
sinh
học,
giảm
thiểu
và
tiến
tới
không
sử
dụng
kháng
sinh
trong
nuôi
tôm;
chuỗi
cung
ứng
thức
ăn
và
vật
tư
thủy
sản
chất
lượng
cao
và
cuối
cùng
là
cam
kết
thu
mua
tôm
với
giá
cao,
ổn
định
khi
tôm
được
nuôi
theo
quy
trình
như
trong
chuỗi
liên
kết.
Đây
là
một
cách
làm
hay,
bền
vững
và
sẽ
phát
triển
mạnh,
trong
đó
các
bên
từ
nhà
sản
xuất
giống,
người
nuôi,
người
cung
cấp
dịch
vụ,
khoa
học,
và
nhà
chế
biến
tôm
có
thể
ngồi
lại
với
nhau,
cùng
chia
sẻ
lợi
ích
và
cùng
khống
chế
rủi
ro
trong
nghề
nuôi
tôm.
>>
Vi
khuẩn
Vibrio
parahaemolyticus
là
loài
phổ
biến
trong
môi
trường
và
chỉ
có
một
dòng
đặc
biệt
của
loài
vi
khuẩn
này
gây
được
bệnh.
Do
đó,
các
phương
pháp
xét
nghiệm
thông
thường
sẽ
không
thể
xác
định
được
sự
tồn
tại
của
dòng
vi
khuẩn
gây
bệnh
này.
Sự
lây
nhiễm
dịch
bệnh
EMS
thông
qua
đường
miệng,
khi
trong
nguồn
nước
có
nhiễm
mầm
bệnh,
hoặc
tôm
ăn
xác
tôm
chết
hay
các
giá
thể
có
mang
mầm
bệnh
(lây
ngang)
và
từ
tôm
bố
mẹ
qua
tôm
giống
(lây
dọc).
|
Theo
Thủy
sản
Việt
nam