Đến
nay,
tôm
vẫn
là
mặt
hàng
xuất
khẩu
dẫn
đầu
của
ngành
thủy
sản,
với
kim
ngạch
năm
2016
khoảng
3,1
tỷ
USD
trong
tổng
số
7,1
tỷ
USD
các
mặt
hàng
thủy
sản.
Điều
quan
trọng
hơn,
tiềm
năng
của
mặt
hàng
này
vẫn
còn
rất
lớn
nếu
có
cách
tiếp
cận
khác.
Tôm
kháng
bệnh
thay
vì
sạch
bệnh
Đây
là
kinh
nghiệm
của
Ecuador,
quốc
gia
nhỏ
bé
ở
khu
vực
Nam
Mỹ.
Theo
ông
Lê
Văn
Quang,
Chủ
tịch
HĐQT,
Tổng
Giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Tập
đoàn
Minh
Phú
-
công
ty
xuất
khẩu
tôm
số
1
thế
giới,
trong
một
lần
tham
gia
hội
chợ
Boston
(Mỹ),
ông
tình
cờ
quen
biết
khách
hàng
người
Ecuador
biết
cách
giải
quyết
vấn
đề
dịch
bệnh
của
con
tôm.
Sau
hội
chợ,
ông
đến
ngay
đất
nước
này,
để
tìm
hiểu
rõ
hơn
cách
làm
của
Ecuador
trong
vấn
nạn
dịch
bệnh
trên
tôm.
Tại
đây,
ông
được
biết,
Ecuador
đi
đầu
trong
việc
nuôi
tôm
công
nghiệp
trên
thế
giới
từ
thập
niên
1990.
Nhưng
năm
1997,
đại
dịch
tôm
do
virus
Taura
gây
ra
và
lan
rộng,
đã
làm
thiệt
hại
nặng
ngành
tôm
công
nghiệp
nước
này.
Đến
mức,
Chính
phủ
Ecuador
đã
phải
cấm
nuôi
để
tập
trung
giải
quyết
vấn
đề,
dẫn
đến
sự
biến
mất
vị
trí
Ecuador
trên
thị
trường
tôm
thế
giới
một
thời
gian.
Khi
đó,
con
tôm
được
nuôi
tại
các
nước
châu
Á,
trong
đó
có
Việt
Nam,
vượt
lên
thay
thế.
Phải
bước
qua
thập
niên
2000,
ngành
tôm
Ecuador
mới
được
vực
dậy.
Năm
2016,
diện
tích
nuôi
tôm
của
Ecuador
chỉ
170.000ha,
sản
lượng
500.000
tấn,
thấp
hơn
chút
ít
so
với
sản
lượng
tôm
Việt
Nam
nhưng
phải
nuôi
với
diện
tích
khoảng
700.000ha.
Đó
là
do
Ecuador
đã
nghiên
cứu,
lai
tạo
để
sản
xuất
ra
loại
tôm
giống
kháng
bệnh,
thay
vì
mãi
tìm
con
giống
sạch
bệnh
mà
bao
lâu
nay
nhiều
nước
vẫn
làm.
Chưa
hết,
các
nhà
khoa
học
Ecuador
còn
khuyến
cáo,
chỉ
nên
nuôi
tôm
công
nghiệp
với
mật
độ
thấp
(khoảng
10
-
30
con/m2),
phù
hợp
với
việc
bảo
vệ
môi
trường.
Sau
vài
năm
áp
dụng,
vấn
đề
dịch
bệnh
đã
được
giải
quyết,
chi
phí
sản
xuất
thấp,
không
lạm
dụng
hóa
chất.
Khoảng
15
năm
qua,
khi
mà
con
tôm
châu
Á
bị
dịch
bệnh
hoành
hành
4
-
5
lần
thì
tại
Ecuador
hầu
như
không
xảy
ra.
Cách
giải
quyết
của
Ecuador
về
con
tôm
khiến
ông
Quang,
với
30
năm
nuôi
tôm,
có
cái
nhìn
khác
hẳn
về
cách
thức
tiếp
cận.
Chỉ
với
việc
áp
dụng
các
ao
nuôi
thí
điểm
ở
vùng
ven
biển
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
với
mật
độ
thấp,
bước
đầu
ông
Quang
đã
nhận
được
kết
quả
khả
quan.
Tôm
kích
cỡ
25
-
30
-
35
nhiều
và
chỉ
40
con
đã
đạt
1kg.
Tôm
nhỏ
nhất
cũng
chỉ
60
con
đã
đạt
1kg.
Điều
này
khó
thấy
ở
những
vụ
trước.
Nếu
thêm
giống
tôm
kháng
bệnh,
có
thể
năng
suất
còn
cao
hơn.
Từ
bài
học
của
Ecuador,
ông
Quang
vận
động
Bộ
NN-PTNT
thay
đổi
cách
tiếp
cận
và
khuyến
cáo
nông
dân
nuôi
theo
hướng
mật
độ
thấp,
con
giống
kháng
bệnh.
Vì
dù
giống
sạch
bệnh
nhưng
nếu
gặp
môi
trường
không
đảm
bảo,
con
tôm
cũng
không
thể
vượt
qua.
Tôm
sú
-
Lợi
thế
để
bứt
phá
Với
diện
tích
hiện
có,
nếu
sử
dụng
giống
kháng
bệnh,
nuôi
mật
độ
vừa
phải
và
giải
quyết
được
vấn
đề
môi
trường
thì
sản
lượng
tôm
Việt
Nam
có
thể
đạt
1
triệu
tấn/năm,
khi
nâng
năng
suất
lên
1,5
tấn/ha.
Với
giá
hiện
nay
khoảng
10
USD/kg
tôm
thẻ
chân
trắng,
kim
ngạch
xuất
khẩu
sẽ
là
10
tỷ
USD.
Con
số
có
thể
hơi
quá
kỳ
vọng,
ít
nhất
trong
thời
gian
trước
mắt,
nhưng
với
cách
tiếp
cận
này
con
tôm
sẽ
còn
bứt
phá
mạnh
trong
tương
lai.
Ở
đây
đã
có
sự
đồng
thanh
khi
ông
Nguyễn
Hoàng
Anh,
Tổng
Giám
đốc
Công
ty
TNHH
Đầu
tư
thủy
sản
Nam
miền
Trung,
một
trong
số
ít
đơn
vị
sản
xuất
tôm
giống
lớn
nhất
cả
nước,
đã
mạnh
dạn
nói
lên
điều
này
với
Thủ
tướng
Nguyễn
Xuân
Phúc
tại
buổi
gặp
gỡ
giữa
các
thành
viên
Câu
lạc
bộ
Nông
nghiệp
công
nghệ
cao
tại
TPHCM
vào
giữa
tháng
12-2016.
Nhưng
Việt
Nam
còn
một
lợi
thế
lớn
khác
là
con
tôm
sú,
với
giá
bán
cao
hơn.
Tôm
sú
từng
là
lợi
thế
của
Việt
Nam
trước
đây,
khi
các
nước
chuyển
qua
nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng
do
thời
gian
nuôi
ngắn,
năng
suất
cao
hơn.
Lúc
đó,
Bộ
NN-PTNT
đã
khẳng
định
chiến
lược
nuôi
tôm
sú
tại
vùng
ven
biển
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL),
chỉ
cho
nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng
ở
vùng
ven
biển
miền
Trung
trở
ra.
Nhưng
khi
nền
kinh
tế
thế
giới
bị
suy
thoái,
người
tiêu
dùng
giảm
bớt
chi
tiêu
và
tìm
đến
sản
phẩm
cùng
loại
nhưng
giá
rẻ
hơn,
con
tôm
thẻ
chân
trắng
nhờ
đó
mà
có
chỗ
đứng
vững
ở
các
nước.
Nhưng
dịch
bệnh,
nhất
là
hội
chứng
tôm
chết
sớm
hoành
hành
khắp
khu
vực
châu
Á,
bao
gồm
Việt
Nam;
để
có
đường
thoát,
các
doanh
nghiệp
vận
động,
cuối
cùng
tôm
thẻ
chân
trắng
cũng
được
nuôi
ở
ĐBSCL.
Hiện
nay,
diện
tích
tôm
thẻ
chân
trắng
chiếm
tỷ
lệ
áp
đảo,
nhưng
Tập
đoàn
Minh
Phú
đã
trở
lại
nuôi
tôm
sú,
còn
Công
ty
TNHH
Đầu
tư
thủy
sản
Nam
miền
Trung
bắt
đầu
cung
ứng
con
giống
tôm
sú
được
lai
tạo
từ
việc
nhập
khẩu
con
giống
của
Hawaii,
ứng
dụng
công
nghệ
sinh
học
và
công
nghệ
cao
để
tạo
ra
con
giống
tôm
sú
khỏe
mạnh.
Theo
ông
Lê
Văn
Quang,
cần
tiến
tới
việc
nghiên
cứu
con
giống
bản
địa
phù
hợp
với
từng
vùng
miền
khác
nhau.
Hơn
nữa,
dư
địa
con
tôm
tại
Việt
Nam
nói
chung
và
vùng
ĐBSCL
nói
riêng
còn
nhiều
hơn
khi
biến
đổi
khí
hậu
đe
dọa
nhiều
vùng
đất.
Ngay
cả
TS
Van
Halsema,
đến
từ
Đại
học
Wageningen
(Hà
Lan),
cũng
cho
rằng
xâm
nhập
mặn
sẽ
ngày
càng
trầm
trọng
hơn
ở
ĐBSCL,
nhưng
không
vì
thế
mà
sợ
hãi
nếu
biết
khai
thác
tiềm
năng
của
vùng
nước
lợ.
Diện
tích
lúa
sẽ
giảm,
nhưng
đó
lại
là
dư
địa
để
tăng
diện
tích
nuôi
tôm.
Tất
nhiên,
vấn
đề
môi
trường,
quy
hoạch
bài
bản
với
cơ
sở
hạ
tầng
đồng
bộ
phải
được
thực
hiện
trước
để
đảm
bảo
sự
bền
vững.
Báo
Sài
Gòn
Giải
Phóng