Muốn
có
ngôi
nhà
tốt,
cần
có
một
cái
móng
vững
chắc;
đối
với
ngành
thủy
sản
cũng
vậy,
để
phát
triển
bền
vững
và
vươn
ra
biển
lớn
cần
xem
con
giống
là
“nền
móng”
của
ngành!
Nỗ
lực
đạt
được
Với
phương
châm
“muốn
nuôi
tốt,
con
giống
phải
tốt”,
trong
năm
qua,
Bộ
NN&PTNT
cùng
với
Tổng
cục
Thủy
sản
và
các
cơ
quan,
ban
ngành
địa
phương
đã
nỗ
lực
đề
ra
các
chính
sách,
thắt
chặt
quản
lý
cũng
như
tăng
cường
kiểm
soát
chất
lượng
giống
thủy
sản.
Tính
đến
nay,
nhìn
vào
sự
phát
triển
và
cuộc
đua
về
đích
của
toàn
ngành
có
thể
ghi
nhận
thành
công
mà
Bộ
NN&PTNT
đã
tạo
dựng
cho
chất
lượng
con
giống
thủy
sản
với
những
nỗ
lực
đáng
khen
ngợi.
Với
con
tôm,
hiện
cả
nước
có
khoảng
2.422
cơ
sở
sản
xuất
giống
tôm
nước
lợ,
trong
đó
1.861
cơ
sở
sản
xuất
giống
tôm
sú
và
561
cơ
sở
sản
xuất
giống
tôm
thẻ
chân
trắng,
sản
xuất
được
hơn
100
tỷ
con
tôm
giống
mỗi
năm.
Tiếp
đến
là
việc
quy
hoạch
thành
công
3
tỉnh
Bạc
Liêu,
Cà
Mau,
Kiên
Giang
trở
thành
vùng
sản
xuất
giống
có
quy
mô
lớn
hơn
50
ha;
Các
thông
tư,
nghị
định
về
quản
lý
giống
thủy
sản
được
ban
hành
cũng
đang
từng
bước
phát
huy
hiệu
quả,
giúp
cho
việc
kiểm
tra,
kiểm
soát
con
giống
ngày
càng
tốt
hơn.
Cùng
với
đó,
Viện
Nghiên
cứu
Nuôi
trồng
Thủy
sản
I
đã
lai
tạo
được
một
số
dòng
tôm
thẻ
chân
trắng
chất
lượng
cao
và
tiến
hành
cho
phép
sản
xuất
giống,
thả
nuôi
thương
phẩm
để
đánh
giá,
khảo
nghiệm
trên
diện
rộng.
Trong
những
năm
tiếp
theo,
việc
chủ
động
sản
xuất
được
con
giống
tôm
thẻ
chân
trắng
tại
Việt
Nam
sẽ
trở
thành
hiện
thực;
Chúng
ta
cũng
đã
thành
công
trong
việc
gia
hóa
tôm
sú
bố
mẹ
trong
điều
kiện
nhân
tạo.
Giảm
dần
tình
trạng
phụ
thuộc
vào
nguồn
giống
nhập
khẩu
và
khai
thác
tự
nhiên.
Bộ
NN&PTNT
đã
đề
ra
kế
hoạch,
phấn
đấu
kết
thúc
năm
2017
có
ít
nhất
10%
số
cơ
sở
sản
xuất
tôm
giống
có
quy
mô
sản
xuất
mỗi
năm
trên
1
tỷ
tôm
post
đăng
ký
chứng
nhận
cơ
sở
an
toàn
dịch
bệnh.
Điều
đáng
kể
hơn
nữa
là
hiện
ngành
cũng
đã
làm
chủ
được
kỹ
thuật
sinh
sản
nhân
tạo
các
đối
tượng
tôm
nước
lợ,
cá
tra,
cá
rô
phi,
nhuyễn
thể,
một
số
loài
cá
biển…
Theo
thống
kê,
cả
nước
đã
có
230
cơ
sở
sản
xuất
giống
cá
tra,
trên
4.000
hộ
ương
dưỡng
cá
giống
với
diện
tích
trên
2.250
ha,
sản
xuất
được
hơn
2
tỷ
cá
tra
giống,
đáp
ứng
đủ
nhu
cầu
thả
nuôi
của
người
dân.
Với
cá
rô
phi,
cả
nước
có
khoảng
240
cơ
sở
sản
xuất,
kinh
doanh
giống
cá
rô
phi,
trong
đó,
44
cơ
sở
nuôi
giữ
đàn
cá
rô
phi
bố
mẹ
với
khoảng
940.000
con,
sản
xuất
được
khoảng
455
triệu
cá
rô
phi
giống.
Đặc
biệt,
nhiều
thương
hiệu
cung
cấp
và
sản
xuất
con
giống
chất
lượng
đảm
bảo
được
hình
thành
và
ngày
càng
phát
triển,
tạo
động
lực
thúc
đẩy
cho
sự
phát
triển
bền
vững
của
nghề
thủy
sản
ở
mức
độ
thâm
canh
cao.
Nền
tảng
vững
chắc
Với
những
cố
gắng
đã
đạt
được,
cùng
với
nhận
thức
về
tầm
quan
trọng
của
chất
lượng
con
giống
trong
việc
sản
xuất
và
nuôi
trồng
thủy
sản;
Tiếp
theo,
cần
phải
làm
gì
để
con
giống
là
nền
tảng
vững
chắc
cho
ngành?
Để
trả
lời
cho
câu
hỏi
này,
chúng
ta
cần
nhìn
nhận
lại
mục
tiêu
mà
ngành
giống
thủy
sản
của
nước
ta
hướng
tới
là
gì.
Để
từ
đó,
có
những
giải
pháp
cụ
thể,
chi
tiết
và
chính
xác
nhất
cho
định
hướng
phát
triển
cho
ngành
giống
và
tạo
đà
cho
sự
phát
triển
chung
của
toàn
ngành.
Theo
định
hướng
của
Bộ
NN&PTNT,
việc
tạo
ra
con
giống
tốt
thì
nòng
cốt
là
các
doanh
nghiệp
với
sự
hỗ
trợ
của
các
Viện
Nghiên
cứu
Nuôi
trồng
Thủy
sản
thuộc
Bộ.
Phát
triển
hệ
thống
sản
xuất,
cung
ứng
giống
thủy
sản
nuôi
trồng
chủ
lực
ở
những
vùng
có
lợi
thế
tự
nhiên
và
vùng
nuôi
trồng
trọng
điểm
để
đảm
bảo
sản
xuất
đủ
giống
tốt,
giá
thành
hạ,
chủ
động
cung
cấp
tại
chỗ
cho
nuôi
trồng.
Với
mục
tiêu
đề
ra
đến
năm
2020,
nước
ta
sẽ
chủ
động
cung
cấp
100%
nhu
cầu
giống
phục
vụ
nuôi
trồng;
trong
đó
75%
giống
sạch
bệnh.
Cụ
thể,
số
lượng
giống
tôm
sú
là
30
tỷ
con,
tôm
thẻ
chân
trắng
100
tỷ
con,
cá
tra
2
tỷ
con,
rô
phi
500
triệu
con,
tôm
càng
xanh
2
tỷ
con,
nhuyễn
thể
60
tỷ
con,
cá
nước
ngọt
truyền
thống
19
tỷ
con,
cá
biển
300
triệu
con,
cá
tầm
và
cá
hồi
3
triệu
con,
thủy
đặc
sản
500
triệu
con.
Để
làm
được
điều
này,
bộ,
ngành
cần
bắt
tay
thực
hiện
các
giải
pháp
cụ
thể
nhất
đã
đưa
ra
để
giải
quyết
triệt
để
vướng
mắc
và
khó
khăn
hiện
nay,
như:
Tiếp
tục
xây
dựng
vùng/khu
sản
xuất
giống
thủy
sản
tập
trung;
Nâng
cấp
và
phát
triển
các
trung
tâm
giống
thủy
sản
nhằm
hình
thành
hệ
thống
nghiên
cứu
thực
nghiệm
và
cung
cấp
đàn
bố
mẹ,
đàn
hậu
bị
cho
các
cơ
sở
sản
xuất
giống,
tập
huấn
chuyển
giao
kỹ
thuật
sản
xuất
giống,
tham
gia
cung
cấp
giống
thủy
sản
kinh
tế
cho
nhu
cầu
nuôi;
Đồng
thời,
hỗ
trợ
tối
đa
50%
chi
phí
sản
xuất
giống
bố
mẹ
tôm
sú,
tôm
thẻ
chân
trắng
sạch
bệnh,
giống
cá
tra
và
một
số
giống
thủy
hải
sản
chủ
lực
khác.
Hỗ
trợ
tối
đa
30%
chi
phí
sản
xuất
giống
lai
đối
với
một
số
loại
giống
cần
khuyến
khích
phát
triển;
Thực
hiện
việc
nâng
cao
năng
lực
hệ
thống
quản
lý
chất
lượng
giống;
Hơn
nữa,
cần
đẩy
mạnh
việc
đào
tạo
và
hợp
tác
quốc
tế
để
tạo
nguồn
nhân
lực
ngày
càng
tốt
hơn;
Trong
đó,
lựa
chọn
nhập
công
nghệ
sản
xuất
giống
công
nghệ
cao,
hiện
đại,
ứng
dụng
thành
tựu
khoa
học
tiên
tiến
của
thế
giới
vào
sản
xuất
giống;
Và
khuyến
khích
các
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
trong
nghiên
cứu
chọn
tạo
giống,
đưa
giống
mới
và
tiến
bộ
khoa
học
công
nghệ
giống
thủy
sản
từ
nước
ngoài
vào
áp
dụng
trong
nước,
đầu
tư
xây
dựng
các
cơ
sở
sản
xuất
giống
có
chất
lượng
cao
cần
được
ưu
tiên
hơn
cả;
Tăng
cường
hợp
tác
quan
hệ
hợp
tác
quốc
tế,
trao
đổi
thông
tin
và
nghiên
cứu
khoa
học,
di
truyền,
chọn
giống,
chuyển
giao
công
nghệ
và
tranh
thủ
sự
tài
trợ
của
các
nước
và
tổ
chức
quốc
tế
để
nâng
cao
năng
lực
cán
bộ.
Coi
trọng
khoa
học
công
nghệ
Sự
phát
triển
của
lĩnh
vực
con
giống
phải
đi
kèm
với
sự
phát
triển
của
toàn
ngành.
Do
đó,
cần
coi
trọng
khâu
khoa
học
công
nghệ
là
trên
hết
và
xem
đây
là
hướng
đi
hiệu
quả
mang
tính
lâu
dài
và
thiết
thực
nhất.
Trước
mắt,
cần
hoàn
thiện
quy
trình
công
nghệ
sản
xuất
giống
tốt,
giống
sạch
bệnh,
các
đối
tượng
có
nhu
cầu
cao
đã
sản
xuất
được
giống
để
tạo
ra
số
lượng
lớn
(tôm
sú,
tôm
thẻ
chân
trắng,
cá
rô
phi,
ngao/nghêu,
tôm
càng
xanh…);
Xây
dựng
quy
trình
sản
xuất
giống
một
số
đối
tượng
chưa
chủ
động
được
giống
như
tôm
hùm,
cá
bản
địa
có
giá
trị
cao
(lươn,
cá
hô,
cá
bông
lau,
cá
bống
kèo…);
Chọn
tạo,
nâng
cao
chất
lượng
giống
một
số
đối
tượng
nuôi
chủ
lực
như
tôm
sú,
TTCT,
cá
tra,
cá
rô
phi,
tôm
càng
xanh…;
Xây
dựng
các
tiêu
chuẩn,
quy
chuẩn
về
giống
làm
cơ
sở
cho
công
tác
quản
lý;
Xây
dựng
quỹ
phát
triển
khoa
học
và
công
nghệ
quốc
gia,
Quỹ
phát
triển
khoa
học
và
công
nghệ
địa
phương
dành
kinh
phí
cho
các
dự
án
thử
nghiệm
sản
xuất
giống,
ưu
tiên
cho
áp
dụng
công
nghệ
tiến
bộ
giống
của
các
thành
phần
kinh
tế.
Song
song
đó,
cần
làm
tốt
việc
chuyển
giao
công
nghệ
sản
xuất
giống
đã
thành
công
trong
nước
về
kỹ
thuật
ương
giống
cá
biển,
sản
xuất
giống
cá
rô
phi
đơn
tính
đực,
sản
xuất
giống
nhuyễn
thể,
cua
biển…;
Xây
dựng
các
mô
hình
sản
xuất
giống
sạch
bệnh
để
nhân
rộng;
Tổng
kết
và
nhân
rộng
mô
hình
tiên
tiến
sản
xuất
giống
chủ
lực
nhằm
sản
xuất
được
giống
tốt,
giá
thành
hạ;
Tăng
cường
tập
huấn
về
kỹ
thuật
sản
xuất
giống,
phát
hành
ấn
phẩm
tuyên
truyền,
phổ
biến
trao
đổi
kinh
nghiệm
rộng
rãi
cho
nông,
ngư
dân.
Với
việc
thực
hiện
đầy
đủ
và
chi
tiết
các
giải
pháp,
cùng
với
sự
nỗ
lực
chung
của
toàn
ngành
để
phát
triển
ngành
con
giống,
hy
vọng
trong
năm
tới,
con
giống
thủy
sản
sẽ
tạo
đà
cho
việc
thúc
đẩy
sự
phát
triển
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
sạch
-
an
toàn
và
bền
vững.
>>Bộ
trưởng
Bộ
NN&PTNT
Nguyễn
Xuân
Cường
đã
nhấn
mạnh,
để
đóng
góp
cho
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
phát
triển
bền
vững,
lực
lượng
doanh
nghiệp
cần
tập
trung
hơn
nữa
vào
chất
lượng
từ
con
giống,
thức
ăn
bằng
việc
đầu
tư,
ứng
dụng
khoa
học
công
nghệ
hiện
đại,
tạo
thêm
sức
cạnh
tranh
trên
thị
trường
trong
giai
đoạn
hội
nhập
quốc
tế. |
Thủy
sản
Việt
Nam