Có
rất
nhiều
cơ
hội
mới
từ
TPP
khiến
chúng
ta
có
quyền
kỳ
vọng
về
một
nền
kinh
tế
tiếp
tục
phát
triển
nhanh,
bền
vững
nhất
là
khi
TTP
chiếm
đến
40%
GDP
và
30%
thương
mại
toàn
cầu,
các
nước
thành
viên
đều
là
những
thị
trường
tiêu
dùng
lớn
của
thế
giới…
Song
bên
cạnh
cơ
hội,
vẫn
có
không
ít
những
thách
thức
mà
Việt
Nam
phải
đối
mặt
và
cần
khẩn
trương
điều
chỉnh
để
thích
ứng.
PV
Báo
CAND
ghi
nhận
thực
tế
tại
ĐBSCL
–
nơi
được
xem
là
vựa
thủy
sản
lớn
của
cả
nước…
Theo
các
chuyên
gia
kinh
tế,
cùng
với
dệt
may,
giày
da
thì
thủy
sản
là
ngành
được
dự
báo
sẽ
hưởng
lợi
rất
lớn
từ
TPP
do
các
rào
cản
về
thương
mại
dần
được
tháo
gỡ.
Có
điều,
nhìn
từ
thực
tế
vựa
thủy
sản
của
cả
nước,
cụ
thể
là
từ
câu
chuyện
con
cá
tra,
con
tôm
sú
vẫn
còn
nhiều
khó
khăn,
thách
thức
đặt
ra
trước
những
cơ
hội
nói
trên.
Theo
số
liệu
đăng
ký
tại
Hiệp
hội
cá
tra
Việt
Nam,
năm
2015,
cá
tra
(chủ
yếu
là
sản
phẩm
cá
tra
phi
lê
đông
lạnh)
Việt
Nam
xuất
khẩu
(XK)
đến
131
quốc
gia
và
vùng
lãnh
thổ.
Có
trên
200
DN
tham
gia
hoạt
động
XK
mặt
hàng
này.
Tính
đến
3/10/2015,
tổng
lượng
đăng
ký
XK
đạt
739.000
tấn
thành
phẩm.
Trung
Quốc
và
Hồng
Kông
là
thị
trường
tiêu
thụ
lớn
nhất
với
122.000
tấn
thành
phẩm.
Có
một
thông
tin
không
vui
khi
mới
đây
thống
kê
từ
Tổng
cục
Hải
quan,
cho
thấy
đến
hết
tháng
9/2015,
kim
ngạch
XK
cá
tra
giảm
9,3%
so
với
cùng
kỳ
năm
2014.
Hai
thị
trường
chất
lượng
cao
là
EUvà
Mỹ
giảm
liên
tục
từ
đầu
năm
(EU
giảm
16,1%,
Mỹ
giảm
3,2%).
TS
Võ
Hùng
Dũng
–
Giám
đốc
VCCI
–
Chi
nhánh
TP
Cần
Thơ,
kiêm
Phó
Chủ
tịch
Hiệp
hội
cá
tra
Việt
Nam,
cho
biết
trước
đây,
thị
trường
XK
cá
tra
truyền
thống
của
Việt
Nam
là
Mỹ
và
EU
chiếm
đến
trên
55%
thị
phần.
Tuy
nhiên,
trong
vài
năm
gần
đây
do
bị
ảnh
hưởng
của
các
rào
cản
kỹ
thuật
đã
làm
cho
nhiều
DN
bỏ
dần
thị
trường
truyền
thống
giá
cao
này
mà
tập
trung
mở
rộng
XK
sang
thị
trường
dễ
tính
ở
các
nước
ASEAN,
Trung
Quốc,
Brazil,
Colombia,
Arab...
do
các
nước
nói
trên
chưa
đặt
ra
các
rào
cản
kỹ
thuật
nghiêm
khắc.
Điều
này
làm
cho
giá
trị
XK
cá
tra
gần
đây
giảm
dần
và
rất
đáng
báo
động.
Các
DN
chạy
theo
mở
rộng
XK
ở
các
thị
trường
dễ
tính
mà
bỏ
các
thị
trường
khó
tính
cũng
đồng
nghĩa
với
việc
tăng
sản
lượng
XK
nhưng
giảm
chất
lượng
cũng
như
giá
trị
XK
loại
sản
phẩm
đặc
thù
này.
Minh
chứng
là
đến
giữa
tháng
9/2015,
kim
ngạch
XK
cá
tra
đạt
1,078
triệu
USD,
giảm
9,2%
so
cùng
kỳ
năm
2014.
Cụ
thể,
kim
ngạch
XK
hai
thị
trường
trọng
điểm
Hoa
Kỳ
giảm
3%,
EU
giảm
17%,
Brazil
giảm
42,9%...
Thực
tế,
không
chỉ
có
hàng
rào
kỹ
thuật
(truy
xuất
nguồn
gốc,
dư
lượng
kháng
sinh,
vi
sinh
vật…),
cá
tra
XK
của
Việt
Nam
còn
phải
đối
đầu
với
các
rào
cản
thương
mại
(thuế
chống
bán
phá
giá
của
Mỹ,
nhãn
đỏ
của
Quỹ
Quốc
tế
bảo
vệ
thiên
nhiên…)
cùng
với
tác
động
của
các
chính
sách
vĩ
mô
(thuế,
tiền
tệ…)
tại
nhiều
thị
trường.
Nhìn
từ
góc
độ
của
DN
chế
biến,
XK,
ông
Trần
Văn
Hùng
-
Giám
đốc
Công
ty
TNHH
Hùng
Cá
(Đồng
Tháp)
bày
tỏ
để
giúp
cho
con
cá
tra
giữ
được
giá
bán
tốt
cũng
như
XK
được
nhiều
nơi
trên
thế
giới
với
giá
cao
cần
phải
được
quản
lý
nghiêm
ngặt
về
chất
lượng.
Hay
nói
như
ông
Nguyễn
Ngọc
Hải
–
Chủ
nhiệm
HTX
nuôi
cá
tra
Thới
An,
quận
Ô
Môn
(Cần
Thơ):
“Khi
mình
vào
TPP,
được
hưởng
lợi
thế
thuế
suất
bằng
0%
thì
tốt
quá
rồi.
Nhưng
mình
không
đáp
ứng
được
những
yêu
cầu
kỹ
thuật
nghiêm
ngặt
của
thị
trường
Mỹ,
thị
trường
châu
Âu
thì
cũng
đồng
nghĩa
với
chuyện
họ
không
ăn
cá
của
mình”.
Lâu
nay,
chất
lượng
vẫn
là
yếu
tố
hàng
đầu
để
hàng
hóa
có
tính
cạnh
tranh
XK.
Cái
khó
là
gần
như
sản
phẩm
thủy
sản
nước
ta
chỉ
XK
thô
nên
hàm
lượng
giá
trị
thấp.
Chưa
dừng
lại
đó,
sản
phẩm
tồn
dư
kháng
sinh,
không
đảm
bảo
các
điều
kiện
về
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm
vẫn
xảy
ra.
Thống
kê
từ
ngành
Hải
quan,
mỗi
năm
có
đến
hàng
chục
lô
hàng
thủy
sản
XK
nước
ta
vi
phạm
về
chất
lượng
và
bị
trả
về.
Ông
Võ
Quốc
Văn
-
Phó
Giám
đốc
Trung
tâm
Chất
lượng
nông
lâm
thủy
sản
vùng
6,
thuộc
Cục
Quản
lý
chất
lượng
Nông
lâm
sản
và
Thủy
sản
(Nafiqad
-
Bộ
NN&PTNT)
cho
biết,
thời
gian
qua,
qua
kiểm
tra
chất
lượng,
Nafiqad
phát
hiện
hàm
lượng
kháng
sinh
phổ
biến
như
Enrofloxacin
vượt
mức
cho
phép
rất
nhiều.
Hơn
nữa,
một
trong
những
yếu
tố
quan
trọng
đảm
bảo
chất
lượng
hàng
thủy
sản
XK
chính
là
nguồn
nguyên
liệu.
Song,
một
thực
tế
đáng
quan
tâm
là
phần
diện
tích
nuôi
trồng
thủy
sản
tại
ĐBSCL
chủ
yếu
là
nhỏ
lẻ.
Vì
thế,
việc
áp
dụng
các
quy
trình
kỹ
thuật
để
tạo
ra
nguồn
nguyên
liệu
sạch
rất
hạn
chế,
đặc
biệt
là
vấn
đề
về
sử
dụng
kháng
sinh
trong
nuôi
trồng.
Rất
nhiều
người
nuôi
tôm
ở
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Cà
Mau,…
khi
được
chúng
tôi
hỏi
đều
lắc
đầu
cho
biết
họ
không
hề
biết
thuốc
nào,
kháng
sinh
nào
cấm
dùng,
hạn
chế
dùng;
và
nhiều
nơi,
việc
này
gần
như
hoàn
toàn
phụ
thuộc
vào
DN
kinh
doanh
mặt
hàng
này.
Chính
từ
thực
tế
này
mà
mỗi
khi
tới
mùa
vụ,
nhiều
địa
phương
đã
rất
vất
vả
tuyên
truyền,
hướng
dẫn
để
người
dân
không
dùng
kháng
sinh
vượt
mức
cho
phép.
Để
tận
dụng
cơ
hội
mới
từ
TPP,
nhiều
chuyên
gia
kinh
tế
cho
rằng
cái
gốc
của
vấn
đề
hiện
nay
là
đòi
hỏi
sản
phẩm
thủy
sản
XK
không
chỉ
chất
lượng
mà
còn
phải
có
giá
trị
cao.
Để
làm
được
điều
này
cần
có
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
nông
dân
và
DN
từ
khâu
nuôi
trồng,
chế
biến
cho
đến
XK.