Theo
nhiều
đánh
giá,
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
(FTA)
mang
lại
cho
thủy
sản
Việt
Nam
nhiều
cơ
hội
lớn,
thế
nhưng,
đây
không
phải
hoàn
toàn
là
màu
hồng,
bởi
có
rất
nhiều
thách
thức
đặt
ra
mà
Việt
Nam
cần
phải
vượt
qua.
Nhiều
tác
động
Thủy
sản
được
dự
báo
sẽ
là
một
trong
các
ngành
hàng
chính
chịu
tác
động
trực
tiếp
của
Hiệp
định
EVFTA
và
CPTPP;
vì
vậy
mà
không
phải
ngẫu
nhiên
mà
những
quy
định
về
xuất
nhập
khẩu
thủy
sản
lại
chiếm
số
trang
dài
nhất
trong
hiệp
định
EVFTA.
Ông
Trương
Đình
Hòe,
Tổng
Thư
ký
VASEP
cho
rằng:
“Bên
cạnh
các
cơ
hội
lớn
cho
xuất
khẩu
thủy
sản
cũng
sẽ
gặp
không
ít
khó
khăn
thách
thức
và
cam
kết
mà
các
doanh
nghiệp
cần
tuân
thủ
như
chính
sách
thuế
quan,
các
cam
kết
về
TBT,
SPS,
lao
động,
môi
trường,
phát
triển
bền
vững,
xuất
xứ…
Còn
TS
Nguyễn
Thị
Thu
Trang,
Trưởng
Ban
Pháp
chế,
Giám
đốc
Trung
tâm
WTO
(VCCI)
đánh
giá,
CPTPP
và
EVFTA
tạo
ra
cơ
hội
đẩy
mạnh
xuất
khẩu
qua
đó
giúp
ngành
nuôi
trồng,
đánh
bắt,
chế
biến
thủy
sản
Việt
Nam
nâng
cao
năng
lực
quản
trị,
chất
lượng
để
phát
triển
bền
vững.
So
với
các
ngành
hàng
khác,
thủy
sản
được
xem
là
ngành
“nhạy
cảm”
và
các
đối
tác
có
phần
e
dè
hơn
trong
việc
cam
kết
mở
cửa
nhưng
trong
CPTPP,
các
đối
tác
đã
cam
kết
xóa
bỏ
ngay
hoặc
xóa
bỏ
trong
vòng
2
-
3
năm
với
hầu
hết
sản
phẩm
thủy
sản
sơ
chế
của
Việt
Nam,
bao
gồm
cá
tra,
cá
ngừ,
tôm,
thịt
cua
và
nhuyễn
thể.
Các
sản
phẩm
thủy
sản
chế
biến
cũng
được
xóa
bỏ
thuế
theo
lộ
trình
5
-
10
năm.
Đáng
chú
ý,
Canada
đã
xóa
bỏ
100%
các
dòng
thuế
đối
với
thủy
sản
Việt
Nam
ngay
khi
CPTPP
có
hiệu
lực,
Mexico
cam
kết
xóa
bỏ
thuế
đối
với
cá
tra
Việt
Nam
sau
2
năm,
sau
3
-
5
năm
xóa
bỏ
60%
số
dòng
thuế… Ngoài
ra,
Nhật
Bản
cũng
cắt
giảm
thuế
sâu
hơn
cho
thủy
sản
Việt
Nam
so
với
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
song
phương
đã
được
thực
thi
trước
đó.
CPTPP và
EVFTA
là
hai
hiệp
định
thương
mại
tự
do
thế
hệ
mới
và
toàn
diện
hơn
so
với
những
FTA
mà
Việt
Nam
đã
tham
gia
trước
đó;
việc
dỡ
bỏ
hàng
rào
thuế
quan
cũng
sâu
hơn
và
áp
dụng
cho
tất
cả
các
ngành
hàng,
kể
cả
nhóm
hàng
khó
đàm
phán
như
thủy
sản.
Hiện
tại,
Việt
Nam
trung
bình
chi
khoảng
1
-
1,5
tỷ
USD
để
nhập
khẩu
thủy
sản
mỗi
năm,
với
mức
thuế
nhập
khẩu
trung
bình
là
9
-
17%.
Vì
vậy,
tham
gia
CPTPP
sẽ
giúp
doanh
nghiệp
Việt
Nam
giảm
bớt
chi
phí
trong
nhập
khẩu.
Vượt
thách
thức
Thủy
sản
là
lĩnh
vực
mà
Việt
Nam
đang
rất
thành
công
trên
trường
quốc
tế;
vì
vậy
sẽ
không
có
chuyện
mở
cửa
ồ
ạt
cho
sản
phẩm
Việt
Nam
xâm
nhập
vào
các
nước,
do
các
nước
đều
bảo
hộ
ngành
thủy
sản
của
họ.
TS
Nguyễn
Thị
Thu
Trang
cho
rằng,
việc
thực
thi
CPTPP
không
đem
lại
phép
màu
cho
ngành
thủy
sản,
vì
ngoại
trừ
3
thị
trường
Canada,
Mexico
và
Peru
thì
các
thị
trường
còn
lại
Việt
Nam
đều
đã
có
FTA
chung
từ
trước.
Riêng
với
EVFTA,
Việt
Nam
tiếp
cận
thị
trường
với
28
quốc
gia
châu
Âu
chưa
từng
có
FTA,
tuy
vậy
có
tới
50%
số
dòng
thuế
của
thủy
sản
phải
cắt
giảm
thuế
theo
lộ
trình
3
-
7
năm.
Cùng
đó,
“với
mức
cam
kết
cắt
giảm
thuế
như
trên,
EVFTA
vẫn
chưa
mang
lại
lợi
thế
thuế
quan
ngay
cho
các
doanh
nghiệp
bởi
hiện
tại
hầu
hết
sản
phẩm
thủy
sản
Việt
Nam
xuất
khẩu
vào
EU
đang
được
hưởng
thế
suất
ưu
đãi
đơn
phương
(GSP)
từ
0
-
4%
mà
EU
dành
cho
một
số
ngành
hàng
được
đánh
giá
là
chưa
trưởng
thành”,
TS
Trang
nhận
định.
Mặt
khác,
tất
cả
ưu
đãi
về
thuế
quan
chỉ
được
áp
dụng
khi
sản
phẩm
được
chứng
minh
là
nuôi
trồng
và
chế
biến
xuất
khẩu
từ
Việt
Nam.
Như
vậy,
đối
với
các
sản
phẩm
nhập
nguyên
liệu
từ
Ấn
Độ,
Thái
Lan
về
chế
biến
xuất
khẩu…
sẽ
không
được
áp
dụng
việc
cắt
giảm
thuế
này.
Ông
Trương
Đình
Hòe
cũng
cho
rằng:
“Thách
thức
lớn
nhất
là
việc
truy
xuất
nguồn
gốc
phải
minh
bạch
để
được
miễn
giảm
thuế,
ngoài
ra
việc
tổ
chức
sản
xuất
bảo
đảm
quyền
lợi
cho
công
nhân,
nông
dân
phải
được
tuân
thủ”.
Do
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
còn
làm
theo
mùa
vụ
nên
việc
ký
hết
hợp
đồng,
bảo
hiểm,
đào
tạo,
thậm
chí
kể
cả
độ
tuổi
lao
động
cũng
nhiều
nơi
chưa
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
EVFTA.
Về
căn
bản,
EVFTA
chống
lại
việc
bóc
lột
cùng
cực
sức
lao
động
của
người
dân,
chống
lại
kiểu
sử
dụng
lao
động
như
nô
lệ
và
sử
dụng
lao
động
vị
thành
niên.
EU
là
thị
trường
tiêu
thụ
thủy
sản
lớn
thứ
hai
của
Việt
Nam,
sau
Mỹ,
chiếm
17
-
18%
trong
cơ
cấu
xuất
khẩu
của
ngành.
Các
chuyên
gia
cho
biết,
trong
những
năm
đầu
của
lộ
trình,
hàng
thủy
sản
của
Việt
Nam
có
thể
gặp
bất
lợi
vì
chịu
thuế
cao
hơn
thuế
GSP
mà
EU
đang
ưu
đãi
cho
hàng
Việt
Nam
hiện
nay,
nhưng
về
dài
hạn
thì
sẽ
hưởng
lợi,
đặc
biệt
là
khi
thuế
về
0%.
Trong
bối
cảnh
thuế
suất
chưa
được
ưu
đãi
nhiều,
nhưng
các
quy
chuẩn
về
sản
xuất,
chế
biến,
xuất
khẩu
lại
được
siết
chặt
hơn,
sẽ
là
thử
thách
không
nhỏ
đối
với
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
mới.
Việc
ký
kết
hiệp
định
thương
mại
tư
do
với
châu
Âu
là
bước
tiến
lịch
sử
và
có
phần
dũng
cảm
của
Việt
Nam,
khi
mà
Thái
Lan
cũng
là
cường
quốc
xuất
khẩu
nhưng
chưa
ký
hiệp
định
thương
mại
tự
do
với
EU.
Theo
đó,
các
hàng
hóa
thủy
sản
từ
EU
cũng
sẽ
dễ
dàng
thâm
nhập
vào
thị
trường
Việt
Nam
và
việc
kiểm
soát
hàng
hóa
xuất
khẩu
sang
EU
cũng
sẽ
nghiêm
ngặt
hơn
trước
kia.
Tuy
vậy,
một
đại
diện
của
Trung
tâm
WTO
và
Hội
nhập
cho
rằng,
việc
toàn
cầu
hóa
là
xu
thế
tất
yêu
và
việc
xâm
nhập
được
vào
thị
trường
khó
tính
như
EU
sẽ
giúp
hàng
thủy
sản
Việt
Nam
lan
tỏa
khắp
thế
giới.
>> Ông
Trần
Đình
Luân,
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Thủy
sản
cho
biết:
Để
hội
nhập
tốt,
chúng
ta
cần
phát
triển
ngành
thủy
sản
trong
nước,
nắm
giữ
tốt
thị
phần
thủy
sản
trong
nước,
đồng
thời
phát
triển
ngành
thủy
sản
Việt
Nam
lên
tầm
cao
mới
để
đáp
ứng
các
yêu
cầu
khắt
khe
của
các
thị
trường. |
Thủy
sản
Việt
Nam