Tóm
lược
ưu
điểm
và
những
thông
số
cần
giám
sát
khi
nuôi
trồng
thủy
sản
với
công
nghệ
biofloc.
Ưu
điểm
của
hệ
thống
biofloc
Bioflocs
-
nguồn
thức
ăn
giàu
dinh
dưỡng
cho
vật
nuôi
Việc
sử
dụng
protein
có
nguồn
gốc
thực
vật
cho
hệ
thống
biofloc
được
coi
là
thân
thiện
với
môi
trường
và
bền
vững
hơn.
Hàm
lượng
dinh
dưỡng
và
chất
lượng
của
biofloc
rất
phong
phú
và
do
đó
chúng
đã
được
sử
dụng
như
một
sự
thay
thế
bền
vững
và
rẻ
hơn
cho
bột
cá.
Tuy
nhiên,
giá
trị
dinh
dưỡng
của
các
hạt
flocs
phụ
thuộc
vào
cộng
đồng
vi
sinh
vật
đi
kèm
với
nó
và
các
yếu
tố
như
nguồn
cacbon
hay
tỷ
lệ
C:N
cũng
ảnh
hưởng
đến
thành
phần
sinh
hóa
của
bioflocs.
Nuôi
cá
áp
dụng
công
nghệ
Biofloc
ở
Ấn
Độ. Ảnh:
Organica
biotech.
El-Sayed
và
cộng
sự
2021
đã
cho
thấy
trong
nuôi
tôm,
thay
thế
15%
-
30%
nguồn
protein
thông
thường
bằng
bột
biofloc
không
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
sức
khỏe
tôm.
Việc
kết
hợp
bột
biofloc
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
giúp
làm
giảm
chi
phí
sản
xuất
đồng
thời
cho
phép
tối
đa
hóa
lợi
nhuận.
Một
số
nghiên
cứu
đã
chỉ
ra
rằng
việc
thay
thế
bột
cá
bằng
bột
biofloc
hoặc
bột
biofloc
kết
hợp
với
lysine
sẽ
giúp
cải
thiện
năng
suất
tăng
trưởng,
tỷ
lệ
sống,
hoạt
động
của
enzyme
tiêu
hóa
và
khả
năng
miễn
dịch
của
các
loài
thủy
sản
nuôi.
Những
nghiên
cứu
trước
đây
cũng
cho
thấy
chế
phẩm
sinh
học
trong
hệ
thống
BFT
có
thể
được
bổ
sung
vào
khẩu
phần
ăn
hoặc
trực
tiếp
vào
nước
nuôi
giúp
tăng
cường
sức
khỏe
của
vật
nuôi.
Giảm
Protein
trong
chế
độ
ăn
Protein
trong
khẩu
phần
(DP)
là
thành
phần
đắt
tiền
nhất
trong
thức
ăn
nuôi
trồng
thủy
sản.
Sử
dụng
thức
ăn
có
hàm
lượng
protein
cao
trên
mức
khuyến
cáo
không
chỉ
gây
ô
nhiễm
hệ
sinh
thái
qua
việc
bài
tiết
chất
thải
nitơ
mà
còn
làm
tăng
chi
phí
sản
xuất.
Thức
ăn
có
hàm
lượng
protein
quá
cao
gây
ô
nhiễm
và
tăng
chi
phí
nuôi.
Ảnh:
Tepbac.
Vì
biofloc
có
thể
đóng
vai
trò
là
nguồn
dinh
dưỡng
thay
thế
cho
các
loài
thủy
sản
nuôi,
Tacon
và
cộng
sự
2002
đề
xuất
rằng
hệ
thống
bioflocs
có
thể
cho
phép
sử
dụng
hàm
lượng
protein
trong
thức
ăn
thấp
hơn
và
giảm
việc
sử
dụng
các
nguyên
liệu
thức
ăn
chăn
nuôi
đắt
tiền.
Những
nghiên
cứu
khác
đã
chỉ
ra
rằng
hàm
lượng
protein
của
bioflocs
nằm
trong
khoảng
từ
12%
-
50%
(phụ
thuộc
vào
nguồn
cacbon
hữu
cơ
được
sử
dụng.)
Nuôi
tích
hợp
các
loài
dựa
trên
công
nghệ
Biofloc
Công
nghệ
BFT
cho
phép
lắp
đặt
hệ
thống
nuôi
trồng
thủy
sản
đa
dinh
dưỡng
(IMTA)
tích
hợp
trong
đó
chất
thải
của
một
sinh
vật
được
sử
dụng
làm
thức
ăn
cho
sinh
vật
khác.
Nói
cách
khác,
cá
rô
phi Oreochromis sp.
và
cá
đối Mugil
liza được
sử
dụng
để
tiêu
thụ
chất
rắn
lơ
lửng
và
chất
hữu
cơ
tích
lũy
trong
quá
trình
nuôi
tôm.
Tuy
nhiên,
việc
lựa
chọn
đúng
loài
để
nuôi
chung
và
xem
xét
điều
kiện
nuôi
rất
quan
trọng
để
duy
trì
chất
lượng
nước
cũng
như
sản
lượng
các
loài
nuôi.
Nuôi
ghép
loài
dựa
trên
Biofloc
giải
quyết
vấn
đề
chất
lượng
nước,
đặc
biệt
là
với
tôm.
Các
khía
cạnh
quản
lý
của
hệ
thống
biofloc
Mặc
dù
được
sử
dụng
trong
mô
hình
thương
mại
từ
giữa
những
năm
1990,
hệ
thống
BFT
vẫn
đang
gặp
phải
những
hạn
chế
và
khó
khăn
trong
quá
trình
hoạt
động.
Với
các
hệ
thống
biofloc
ngoài
trời,
sự
phụ
thuộc
vào
điều
kiện
thời
tiết
gây
ra
sự
biến
động
về
chất
lượng
nước
do
quá
trình
nở
hoa
của
vi
tảo.
Cần
theo
dõi
cẩn
thận
nồng
độ
của
tổng
chất
rắn
lơ
lửng
(TSS).
Nồng
độ
TSS
được
khuyến
nghị
cho
nuôi
trồng
thủy
sản
nằm
trong
khoảng
từ
500
-
1000
mg/L.
Mặc
dù
được
đưa
vào
thương
mại
đã
rất
lâu,
nhưng
công
nghệ
Biofloc
vẫn
gặp
nhiều
hạn
chế.
Ảnh:
Tepbac.
Theo
nghiên
cứu
của
Avnimelech
và
cộng
sự
năm
2006,
các
thông
số
chính
của
nước
trong
hệ
thống
biofloc
nuôi
cá
rô
phi
nói
riêng
và
nuôi
trồng
thủy
sản
nói
chung
cần
phải
giám
sát
bao
gồm:
NO2:
Nitrit
rất
độc
đối
với
cá
nếu
có
hàm
lượng
trên
1
mg/L.
Điều
này
có
nghĩa
là
sự
tích
tụ
của
bùn
dẫn
đến
sự
hiện
diện
của
các
vùng
kỵ
khí.
Do
đó,
cần
tăng
cường
và
lắp
đặt
thiết
bị
sục
khí
phù
hợp
để
tăng
mức
oxy
hòa
tan
giúp
các
vi
sinh
vật
hiếu
khí
chuyển
nitrit
thành
nitrat.
TAN.
Tổng
nitơ
trong
nước
dưới
0,5
mg/L
cho
thấy
hệ
thống
đang
hoạt
động
tốt.
Sự
gia
tăng
TAN
trên
mức
này
đòi
hỏi
bổ
sung
thêm
carbon
vào
hệ
thống.
DO.
Oxy
hòa
tan
không
được
dưới
5
mg/L
.
Dưới
mức
này,
nên
thêm
máy
sục
khí
vào
hệ
thống
để
cung
cấp
thêm
oxy.
Thể
tích
Floc
(FV)
phải
nằm
trong
khoảng
từ
5
-
50
mL/L
và
được
theo
dõi
bằng
cách
sử
dụng
hình
nón
Imhoff.
Khi
nồng
độ
FV
trên
50
mL/L
,
cần
loại
bỏ
bùn,
và
nếu
dưới
5
mL/L,
cần
bổ
sung
thêm
carbohydrate.
Phễu
hình
nón Imhoff
dùng
để
theo
dõi
thể
tích
floc.
Ảnh: aquabioponics.com
Việc
hình
thành
vi
khuẩn
nitrat
hóa
chậm
trong
hệ
thống
BFT
cũng
là
một
trong
những
hạn
chế
của
công
nghệ
này.
Có
khi
phải
mất
hơn
một
tháng
để
các
bioflocs
ban
đầu
phát
triển.
Một
hạn
chế
nghiêm
trọng
khác
của
BFT
là
chi
phí
năng
lượng
cao.
Máy
sục
khí
và
máy
bơm
cần
năng
lượng
để
hoạt
động
bình
thường
và
bất
kỳ
sự
cố
mất
điện
nào
cũng
có
thể
gây
ra
thiệt
hại
lớn
về
kinh
tế.