Tổng
cục
Thủy
sản
đang
xây
dựng
đề
án
phát
triển
thủy
sản
bền
vững
vùng
ĐBSCL,
tập
trung
vào
nuôi
trồng
với
mục
tiêu:
“Phát
triển
NTTS
trở
thành
lĩnh
vực
sản
xuất
chính,
quan
trọng
trong
ngành
nông
nghiệp
vùng
ĐBSCL,
phù
hợp
với
điều
kiện
tự
nhiên,
các
vùng
sinh
thái,
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu
để
sản
xuất
an
toàn,
bền
vững.
Sản
lượng,
giá
trị
được
nâng
cao,
sản
xuất
thân
thiện
môi
trường,
tiết
kiệm
nhiên
liệu
và
trách
nhiệm
xã
hội…”.
Liên
tục
phát
triển
NTTS
ĐBSCL
có
hai
sản
phẩm
chủ
lực
là
tôm
nước
lợ
và
cá
tra.
Theo
báo
cáo
của
các
địa
phương,
năm
2019,
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ
670.551
ha
(tôm
sú
583.205
ha,
TTCT
87.346
ha),
cá
tra
7.467
ha;
sản
lượng
tôm
724.646
tấn
(tôm
sú
301.207
tấn,
TTCT
423.440
tấn),
cá
tra
1.591.528
tấn.
Còn
tổng
diện
tích
NTTS
năm
2019
là
936.473
ha,
tăng
liên
tục
trong
giai
đoạn
2010
–
2019
khi
năm
2010
mới
có
745.293
ha,
chủ
yếu
tăng
diện
tích
nuôi
tôm
nước
lợ.
Năm
2019,
nuôi
nước
lợ
và
mặn
chiếm
trên
85%
và
trong
số
này,
tôm
nước
lợ
chiếm
88,4%.
Còn
lại
là
nuôi
cua,
nghêu,
cá,
tôm
càng
xanh
và
các
thủy,
đặc
sản
của
vùng.
Mục
tiêu
đến
năm
2030,
sản
lượng
cá
tra
vùng
ĐSBCL
đạt
1,8
triệu
tấn.
Ảnh:
Văn
Phô
Cũng
năm
2019,
diện
tích
nuôi
tôm
càng
xanh
52.657
ha;
nuôi
cua
kết
hợp
trong
ao
tôm,
xen
canh
và
luân
canh
với
lúa
trên
100.000
ha;
nhuyễn
thể
các
loại
như
nghêu,
sò
huyết,
hàu
trên
30.000
ha.
Tổng
sản
lượng
NTTS
tăng
từ
1.982.389
tấn
năm
2010
lên
3.254.315
tấn
năm
2019,
gấp
1,6
lần
trong
10
năm.
Giá
trị
sản
xuất
NTTS
tăng
liên
tục.
Thống
kê
của
Viện
Kinh
tế
và
Quy
hoạch
thủy
sản,
năm
2010
hơn
78.000
tỷ
đồng
đến
năm
2018
đã
trên
178.000
tỷ
đồng
(tăng
hơn
2,2
lần).
Tốc
độ
tăng
hàng
năm
về
giá
trị
trung
bình
5,69%,
cao
hơn
tăng
diện
tích
chỉ
2,57%
và
sản
lượng
5,66%.
Tỷ
trọng
đóng
góp
giá
trị
sản
xuất
thực
tế
của
NTTS
trong
khối
nông,
lâm,
ngư
nghiệp
cũng
tăng
từ
25,7%
năm
2010
lên
30,7%
năm
2018.
Tốc
độ
tăng
trưởng
trung
bình
hàng
năm
của
NTTS
là
5,69%,
cao
hơn
so
toàn
ngành
nông
nghiệp
chỉ
4,17%.
NTTS
ĐBSCL
đã
khai
thác
được
tiềm
năng,
lợi
thế
điều
kiện
tự
nhiên
theo
từng
vùng
sinh
thái
để
tổ
chức
sản
xuất
mang
lại
kết
quả
to
lớn
về
giá
trị
kinh
tế
và
giải
quyết
các
vấn
đề
xã
hội.
Hình
thành
các
vùng
nuôi
trọng
điểm
tôm
sú,
TTTC,
cá
tra,
tôm
càng
xanh,
nhuyễn
thể,
thủy,
đặc
sản.
Chuyển
hướng
rõ
rệt
theo
hình
thức
và
quy
mô
sản
xuất
công
nghiệp,
áp
dụng
khoa
học
công
nghệ
cao
để
nâng
cao
giá
trị,
góp
phần
cải
thiện
đời
sống
nông
thôn,
đặc
biệt
khu
vực
ven
biển.
Thực
tế
đó
từng
bước
xoay
trục
cơ
cấu
kinh
tế
nông
nghiệp
theo
hướng
thủy
sản
–
cây
ăn
quả
–
lúa
theo
Nghị
quyết
120/NQ-CP
ngày
17/11/2017
của
Chính
phủ.
Khó
khăn
và
thách
thức
NTTS
ĐBSCL
cũng
còn
nhiều
tồn
tại,
hạn
chế.
Trước
hết
là
con
giống,
có
vai
trò
quan
trọng
và
quyết
định
sự
thành
công
trong
sản
xuất,
nước
ta
vẫn
chưa
hoàn
toàn
làm
chủ
công
nghệ
chọn
tạo,
gia
hóa
nên
chưa
chủ
động
cung
ứng.
Mỗi
năm
vẫn
phải
nhập
180.000
–
260.000
con
TTCT
bố
mẹ
(khoảng
90%
nhu
cầu);
tôm
sú
bố
mẹ
chủ
yếu
thu
gom
từ
tự
nhiên.
Mới
có
tôm
giống
sạch
bệnh
cho
nuôi
công
nghiệp,
chưa
có
cho
nuôi
quảng
canh,
tôm
–
rừng.
Giống
cá
tra
xu
hướng
bị
thoái
hóa,
tốc
độ
tăng
trưởng
chậm,
dễ
bị
bệnh,
chưa
đáp
ứng
nhu
cầu
sản
xuất.
Một
số
giống
loài
khác
vẫn
còn
lệ
thuộc
vào
nguồn
giống
tự
nhiên.
Phần
lớn
hạ
tầng
vùng
nuôi
chưa
đảm
bảo:
Hệ
thống
thủy
lợi
phục
vụ
NTTS
chủ
yếu
vẫn
dùng
chung
với
hệ
thống
thủy
lợi
phục
vụ
sản
xuất
nông
nghiệp,
không
phù
hợp
với
yêu
cầu
kỹ
thuật,
hệ
thống
cấp,
thoát
nước
không
đảm
bảo,
các
vùng
nuôi
thâm
canh
không
có
ao
xử
lý
nước
nên
dễ
xảy
ra
dịch
bệnh.
Nguồn
nước
dễ
bị
ô
nhiễm
do
quá
trình
sản
xuất
và
sinh
hoạt,
thuốc
bảo
vệ
thực
vật
từ
sản
xuất
nông
nghiệp.
Nhiều
doanh
nghiệp
ứng
dụng
công
nghệ
vào
chế
biến
cá
tra
mang
lại
hiệu
quả
cao.
Ảnh:
LHV
Sản
xuất
manh
mún,
vẫn
còn
nhiều
cơ
sở
nuôi
nhỏ
lẻ,
chưa
tạo
thành
vùng
sản
xuất
hàng
hóa
tập
trung.
Tình
trạng
lạm
dụng
thuốc,
hóa
chất
diễn
ra
ở
nhiều
nới.
Tỷ
lệ
nuôi
tôm
bán
thâm
canh,
thâm
canh
còn
thấp
nên
năng
suất
bình
quân
mới
đạt
khoảng
3,4
tấn/ha,
thấp
hơn
năng
suất
bình
quân
của
cả
nước
khoảng
4
tấn/ha.
Liên
kết
trong
sản
xuất
theo
chuỗi
còn
rất
nhiều
hạn
chế
dẫn
đến
“được
mùa
mất
giá”
nhiều
nơi.
Giá
thành
một
số
đối
tượng
nuôi
còn
cao,
đặc
biệt
là
tôm
nước
lợ.
Cạnh
tranh
thương
mại
ngày
càng
khốc
liệt,
thị
trường
xuất
khẩu
thủy
sản
nói
chung,
tôm
và
cá
tra
nói
riêng
vẫn
gặp
khó
khăn.
Bên
cạnh
đó
là
nhiều
rào
cản
và
thách
thức
về
thị
trường,
môi
trường,
kỹ
thuật,
công
nghệ;
xung
đột
với
các
ngành
kinh
tế
khác
trong
sử
dụng
đất,
nước,
nguồn
nhân
lực.
Đặc
biệt
là
thách
thức
về
biến
đổi
khí
hậu.
Mục
tiêu
và
giải
pháp
Có
bốn
quan
điểm
phát
triển
được
đặt
ra:
ĐBSCL
tiếp
tục
là
vùng
phát
triển
NTTS
trọng
điểm,
lớn
nhất
của
cả
nước
theo
hướng
nâng
cao
giá
trị,
chất
lượng
sản
phẩm,
đặc
biệt
là
tôm
nước
lợ
và
cá
tra.
Chủ
động
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu
dựa
trên
việc
ứng
dụng
thành
tựu
khoa
học
công
nghệ
và
thực
tiễn
sản
xuất
để
phát
triển
an
toàn,
bền
vững.
Phát
triển
NTTS
phải
gắn
với
bảo
vệ
môi
trường
sinh
thái,
nguồn
lợi
thủy
sản
và
an
toàn
sinh
học.
Huy
động
sự
tham
gia
của
các
bên
liên
quan
đầu
tư
chuỗi
sản
xuất,
đặc
biệt
là
lĩnh
vực
công
nghệ
cao,
thân
thiện
môi
trường,
tiết
kiệm
năng
lượng,
sản
xuất
sạch.
Chỉ
tiêu
cụ
thể
đến
năm
2030:
Diện
tích
trên
1,1
triệu
ha
(nước
mặn
và
lợ
900.000
ha,
nước
ngọt
200.000
ha),
sản
lượng
trên
5
triệu
tấn
(tôm
nước
lợ
trên
1,2
triệu
tấn,
cá
tra
trên
1,8
triệu
tấn,
tôm
càng
xanh
trên
150.000
tấn,
nhuyễn
thể
trên
350.000
tấn
và
các
giống
loài
thủy
sản
khác
1,6
triệu
tấn).
Chủ
động
sản
xuất
được
giống
tốt,
sạch
bệnh.
Vùng
nuôi
tập
trung
các
đối
tượng
chủ
lực
100%
được
cấp
mã
số
và
truy
xuất
nguồn
gốc.
Giá
trị
xuất
khẩu
trên
10
tỷ
USD.
Phát
triển
thêm
2
–
3
đối
tượng
chủ
lực.
Giải
pháp
chú
trọng
vào
công
nghệ,
bảo
vệ
môi
trường
và
chế
biến
sản
phẩm
có
giá
trị
cao.
Về
công
nghệ:
Nghiên
cứu,
hoàn
thiện
quy
trình
sản
xuất
giống
và
nuôi
thương
phẩm
các
đối
tượng
chủ
lực,
có
tiềm
năng.
Ứng
dụng
công
nghệ
sinh
học,
công
nghệ
cao,
công
nghệ
Nano
để
nghiên
cứu
sản
xuất
vật
tư
đầu
vào
phòng
trị
dịch
bệnh,
dinh
dưỡng
cho
các
đối
tượng.
Khuyến
khích
các
tổ
chức,
cá
nhân
tham
gia
đào
tạo
nhân
lực
phục
vụ
NTTS.
Giải
pháp
bảo
vệ
môi
trường
và
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu:
Xây
dựng,
hoàn
thiện
hệ
thống
quan
trắc
môi
trường
nước,
đặc
biệt
ở
các
vùng
nuôi
tập
trung
để
theo
dõi
các
biến
động
môi
trường,
kịp
thời
thông
tin,
cảnh
báo
cho
các
cơ
sở
nuôi
trong
vùng.
Kiểm
soát
chặt
chẽ
nước
thải,
chất
thải
của
các
vùng
sản
xuất
giống,
vùng
nuôi
tập
trung,
cơ
cở
chế
biến
thức
ăn
và
khu
công
nghiệp
phụ
trợ.
Chế
biến
sản
phẩm
có
giá
trị
cao:
Khuyến
khích
áp
dụng
các
quy
trình
quản
lý
tiên
tiến
và
công
nghệ
mới
vào
chế
biến
sản
phẩm
để
giảm
giá
thành,
đa
dạng
hóa
mặt
hàng,
ưu
tiên
đặc
biệt
cơ
sở
chế
biến
các
loại
sản
phẩm
phụ
để
nâng
cao
giá
trị
sản
xuất,
bảo
vệ
môi
trường.
Xây
dựng
thương
hiệu
các
sản
phẩm
thủy
sản
Việt
Nam,
sản
phẩm
chỉ
dẫn
địa
lý
uy
tín,
đáp
ứng
thị
hiếu
và
lòng
tin
của
người
tiêu
dùng
trong
và
ngoài
nước.
>>
Theo
Thứ
trưởng
Bộ
Kế
hoạch
và
Đầu
tư
Trần
Quốc
Phương,
thủy
sản
gần
đây
được
coi
là
trọng
tâm
mới
của
nông
nghiệp
ở
vùng
ĐBSCL,
nhưng
rủi
ro
rất
lớn
do
ô
nhiễm
và
đòi
hỏi
đầu
tư
ban
đầu
lớn
nếu
muốn
đảm
bảo
kỹ
thuật,
bảo
vệ
môi
trường.
Bên
cạnh
đó,
khả
năng
cung
cấp
hạ
tầng
nước
phục
vụ
thủy
sản
gặp
nhiều
khó
khăn,
đặc
biệt
là
vào
mùa
khô. |