Sự
tăng
trưởng
và
phát
triển
của
tôm
là
kết
quả
của
sự
hấp
thu
năng
lượng
và
các
chất
dinh
dưỡng
mỗi
ngày
mà
đơn
cử
là
protein.
Đạm
(protein)
là
một
trong
những
thành
phần
chiếm
chi
phí
cao
nhất
trong
thức
ăn
cho
tôm,
và
việc
xây
dựng
một
công
thức
thức
ăn
đáp
ứng
đúng
nhu
cầu
về
protein
(các
axit
amin)
của
tôm
đóng
vai
trò
vô
cùng
quan
trọng.
Để
có
thể
kiểm
soát
chi
phí,
các
nhà
nhà
sản
xuất
thức
ăn
thủy
sản
mong
muốn
có
thể
tinh
giảm
phần
trăm
đạm
trong
viên
thức
ăn,
tuy
nhiên
việc
cắt
giảm
này
không
được
làm
ảnh
hưởng
đến
sự
tăng
trưởng
và
phát
triển
của
tôm.
Để
hiểu
được
sự
ảnh
hưởng
của
protein
trong
khẩu
phần
ăn
lên
tốc
độ
tăng
trưởng
và
trọng
lượng
cuối
cùng
khi
thu
hoạch,
có
một
yếu
tố
quan
trọng
nữa
cần
phải
được
được
xem
xét,
đó
chính
là
sự
tác
động
của
lượng
thức
ăn
mà
tôm
ăn
vào
(FI).
Việc
quản
lý
chương
trình
cho
ăn
phù
hợp
cũng
quan
trọng
như
việc
xây
dựng
công
thức
thức
ăn,
đóng
vai
trò
trong
việc
thúc
đẩy
sự
tăng
trưởng
toàn
diện
của
tôm,
giảm
thiểu
chất
thải
và
ô
nhiễm.
Để
có
thể
tránh
hiện
tượng
chuyển
hóa
thức
ăn
kém
và
các
vấn
đề
về
chất
lượng
nước,
người
nuôi
phải
có
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
lượng
thức
ăn
và
các
chất
dinh
dưỡng
mà
tôm
ăn
vào
với
sự
tăng
trọng
của
tôm
trong
suốt
vụ
nuôi.
Có
vài
bất
đồng
quan
điểm
liên
quan
đến
hàm
lượng
đạm
trong
thức
ăn,
những
sự
bất
đồng
này
chủ
yếu
là
do
sự
hiểu
lầm
về
cách
làm
sao
để
tối
ưu
hóa
việc
quản
lý
cho
ăn
trong
ao
nuôi,
trong
khi
vẫn
phải
đáp
ứng
được
nhu
cầu
về
protein
chính
xác
cho
tôm.
Tăng
trưởng
là
kết
quả
của
sự
hấp
thu
năng
lượng
và
các
chất
dinh
dưỡng
mỗi
ngày
mà
đơn
cử
là
protein.
Lượng
đạm
mà
tôm
hấp
thụ
vào
cơ
thể
mỗi
ngày,
trực
tiếp
liên
quan
đến
nồng
độ
protein
trong
thức
ăn
và
tổng
khối
lượng
thức
ăn
mà
tôm
ăn
vào.
Người
nuôi
phải
có
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
lượng
thức
ăn
và
các
chất
dinh
dưỡng
mà
tôm
ăn
vào
với
sự
tăng
trọng
của
tôm
trong
suốt
vụ
nuôi.
Ảnh agromarketing
Bằng
cách
điều
chỉnh
lượng
đạm
trong
thức
ăn
để
phù
hợp
với
lượng
thức
ăn
mà
tôm
ăn
vào
sẽ
tránh
được
hiện
tượng
tiêu
thụ
quá
mức
lượng
protein,
đồng
thời
giúp
giảm
thiểu
chi
phí
thức
ăn
và
giảm
lượng
ni-tơ
đào
thải
ra
môi
trường.
Sử
dụng
chương
trình
cho
ăn
này
kết
hợp
với
việc
bổ
sung
các
axit
amin
thiết
yếu
trong
khẩu
phần
ăn,
ngành
công
nghiệp
gia
cầm
đã
giảm
được
lượng
tiêu
thụ
protein
lên
đến
20%.
Nếu
người
nuôi
tôm
hiểu
và
đáp
ứng
được
nhu
cầu
protein
của
tôm
với
lượng
thức
ăn
cho
ăn
mỗi
ngày
trong
suốt
chu
kỳ
nuôi,
thì
việc
tiết
kiệm
được
chi
phí
thức
ăn
là
điều
rất
khả
thi.
Tuy
nhiên
để
làm
được
như
vậy,
một
thứ
cần
phải
được
hiểu
rõ
đó
là
mối
quan
hệ
giữa
nồng
độ
protein
trong
thức
ăn
và
lượng
thức
ăn
mà
tôm
ăn
vào.
Việc
cho
tôm
ăn
một
loại
thức
ăn
có
chứa
quá
nhiều
đạm
mang
lại
nhiều
bất
lợi
cho
người
nuôi,
mà
chủ
yếu
là
do
sự
khó
khăn
trong
việc
duy
trì
hợp
lý
tỷ
lệ
năng
lượng
và
protein.
Trong
một
thí
nghiệm
đã
được
thực
hiện,
tôm
thẻ
có
khối
lượng
ban
đầu
1.3g
được
cho
ăn
41g
đạm
trên
một
kg
trọng
lượng
cơ
thể
mỗi
ngày,
tuy
nhiên
có
sự
thay
đổi
về
hàm
lượng
đạm
trong
thức
ăn
và
lượng
thức
ăn
được
cho
ăn.
Cụ
thể,
tôm
được
cho
ăn
thức
ăn
chứa
32%
đạm,
với
tỷ
lệ
cho
ăn
là
12%
trọng
lượng
thân,
tăng
trường
3,4g
với
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
là
51.7%.
Còn
tôm
khi
được
cho
ăn
48%
đạm,
8%
trọng
lượng
thân,
tăng
trưởng
2.9g
với
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
là
68.7%.
Những
kết
quả
trong
thí
nghiệm
này
có
ý
nghĩa
quan
trong
đến
ngành
công
nghiệp
nuôi
tôm
thương
phẩm.
Thậm
chí
ở
những
ao
nuôi
mà
việc
quản
lý
thức
ăn
đã
rất
tốt,
chỉ
cần
thay
đổi
loại
thức
ăn
có
lượng
đạm
ít
hơn
mà
nhu
cầu
protein
không
được
đáp
ứng
thông
qua
việc
tăng
lượng
thức
ăn
tiêu
thụ
cũng
sẽ
giảm
hiệu
quả
chuyển
đổi
thức
ăn,
tăng
hàm
lượng
chất
hữu
cơ
trong
hệ
thống
nuôi,
và
có
thể
làm
giảm
sự
tăng
trưởng
của
tôm.
Nếu
các
tỷ
lệ
cho
ăn
được
quản
lý
phù
hợp
thì
việc
đánh
giá
các
loại
thức
ăn
với
hàm
lượng
đạm
khác
nhau
có
thể
được
xác
định
như
sau.
Nếu
thức
ăn
có
hàm
lượng
30%
đạm
đang
được
sử
dụng
và
những
lợi
ích
của
thức
ăn
có
hàm
lượng
đạm
cao
hơn
được
đánh
giá
là
cần
thiết,
thì
lượng
thức
ăn
đạm
cao
này
phải
được
cắt
giảm
so
với
thức
ăn
có
hàm
lượng
đạm
thấp.
Ví
dụ,
so
sánh
viên
thức
ăn
30%
với
40%
đạm,
thì
lượng
thức
ăn
40%
đạm
chỉ
nên
cho
ăn
ở
mức
70%
(30/40
x100)
của
lượng
thức
ăn
có
chứa
30%
đạm.
Nguồn: D.
Allen
Davis,
Ph.D
and
Richard
D.
Miles,
Ph.D.
(2001).
Maximize
feed
efficiency
through
proper
protein
management
[online],
viewed
8
March
2022,
from:<
www.globalseafood.org
>.