Bất
chấp
sóng
gió,
năm
2014,
mặt
hàng
thủy
sản
XK
của
Việt
Nam
về
đích,
đạt
kim
ngạch
XK
cao
nhất
từ
tước
tới
nay
với
7,92
tỷ
USD,
tăng
18,2%
so
với
năm
2013.
Trong
đó
tôm
XK
chạm
ngưỡng
4
tỷ
USD,
tăng
25%
so
năm
trước
và
chiếm
trên
50%
kim
ngạch
toàn
ngành.
Ở
ĐBSCL,
SX
cá
tra
chưa
sáng
sủa,
nhưng
nuôi
tôm
nước
lợ
không
ngừng
gia
tăng.
Bên
cạnh
con
tôm
sú
duy
trì
ổn
định,
tôm
thẻ
chân
trắng
(TCT)
tăng
trưởng
mạnh,
góp
phần
tạo
nên
mức
tăng
trưởng
chung
cho
ngành
hàng
thủy
sản.
Tuy
nhiên
qua
quí
1
năm
2015,
GĐ
một
Cty
chế
biển
thủy
sản
tại
Cần
Thơ
cho
rằng,
sụt
giảm
mạnh
cả
về
sản
lượng
lẫn
giá
bán
do
đồng
euro
(EUR)
mất
giá
mạnh
so
với
đồng
USD,
khiến
các
NK
của
châu
Âu
thua
lỗ
vì
giá
hàng
đội
lên
cao.
Các
Cty
XK
thủy
sản
Việt
Nam
buộc
phải
giảm
giá
bán.
Chênh
lệch
giá
xảy
ra
giữa
lô
hàng
nhập
sau
rẻ
hơn
lô
hàng
nhập
trước.
Tình
hình
một
số
nước
có
chủ
trương
phá
giá
đồng
tiền,
hàng
NK
càng
đội
giá
lên
cao
cũng
làm
giảm
sức
tiêu
thụ.
Trong
khi
đó,
tại
thị
trường
Mỹ,
khi
đồng
USD
mạnh
lên
nhưng
giá
bán
cá
tra,
tôm
cũng
không
thể
tăng
lên
mà
thậm
chí
còn
giảm
do
tình
trạng
các
nước
XK
cạnh
tranh
thị
trường,
hạ
giá.
Trên
thị
trường
XK
tôm
sú,
tôm
thẻ
chân
trắng
đều
giảm
tới
20%
nên
giá
tôm
nguyên
liệu
trong
nước
khá
trầm
lắng.
Ở
vùng
nuôi
tôm
ven
biển
ĐBSCL,
từ
đầu
năm
đến
nay
thời
tiết
hết
lạnh
chuyển
sang
khô,
nóng,
một
số
hộ
nuôi
tôm
vào
vụ
thả
sớm
gặp
thất
bại.
Giá
vật
tư
nuôi
tôm
tăng
lên,
trong
khi
tôm
thẻ
rớt
giá
nên
làm
giảm
thu
nhập
cho
người
nuôi
tôm.
Brasil,
Trung
Quốc
và
thị
trường
ASEAN
đang
mở
cửa
thị
trường
NK
cá
tra,
nhưng
không
thể
kỳ
vọng
giá
bán
tăng
lên
khi
áp
lực
các
DN
cần
xoay
đồng
vốn,
đẩy
hàng
tồn
kho.
Tình
hình
đã
tác
động
tiêu
cực
lên
giá
cá
tra
nguyên
liệu,
hiện
còn
khoảng
23.000đ/kg,
giảm
hơn
1.000-1.500đ/kg
so
với
những
tháng
cuối
năm
2014.
Trong
lúc
này
người
nuôi
cá
tra
trong
vùng
mệt
mỏi,
gần
như
tạm
nhường
sân
cho
các
DN
có
vùng
nuôi
tự
sản,
tự
tiêu.
Đối
thủ
cạnh
tranh
Trước
đây
có
quan
niệm
cho
rằng,
cá
tra
là
sản
phẩm
độc
tôn
của
Việt
Nam.
Qua
thực
tế
trên
thương
trường,
dần
dần
mặt
hàng
cá
tra
của
ta
mất
dần
lợi
thế.
DN
XK
cá
tra
thừa
nhận
tuy
cá
tra
là
quà
của
thiên
nhiên
ban
tặng
cho
nước
ta,
nhưng
chợ
bây
giờ
không
còn
của
riêng
mình
nữa.
Thái
Lan
cũng
có,
nhưng
không
khai
thác.
Trung
Quốc,
Indonesia
có
loại
cá
cùng
họ
với
cá
tra
Việt
Nam,
mỗi
nước
cũng
đã
có
khoảng
300.000
tấn...
Trong
khi
đó
cá
minh
thái
(họ
cá
tuyết)
hay
còn
gọi
là
cá
Alaska
pollack
-
loài
cá
biển
từ
vùng
Alaska
có
khẩu
vị
ngon,
giá
rẻ
hiện
nằm
trong
top
5
loài
thủy
sản
được
tiêu
thụ
nhiều
nhất
tại
Mỹ.
Cá
minh
thái
là
đối
thủ
cạnh
tranh
trực
tiếp
lớn
nhất
với
cá
tra.
Năm
2007-2008,
do
sản
lượng
khai
thác
cá
minh
thái
giảm
tối
đa
để
duy
trì
tính
tự
nhiên,
cá
tra
đã
gia
tăng
sản
lượng
tối
đa.
Trong
2
năm
đó
ĐBSCL
bật
nhanh,
mở
rộng
vùng
nuôi
cá
tra
hơn
6.160
ha,
sản
lượng
vượt
hơn
1,1
triệu
tấn/năm.
Trong
giai
đoạn
được
xem
là
cá
tra
tăng
trưởng
nóng,
chính
là
do
từ
thị
trường
các
nước
NK
cần
hàng,
kích
giá
cá
tăng
cao.
Thế
nhưng,
vì
tăng
trưởng
không
bền
vững
nên
những
năm
sau
đó
cá
tra
giảm
dần
diện
tích
nuôi
và
sản
lượng.
Nuôi
tôm
sạch,
hạ
giá
thành
để
tăng
sức
cạnh
tranh
Do
vậy,
trong
điều
hành
của
Hiệp
hội
cá
tra
Việt
Nam
–
vấn
đề
quan
trọng
nhất
là
cần
đánh
giá
được
tình
hình
cung,
cầu
cá
thịt
trắng
hàng
năm
trên
thị
trường
thế
giới.
Từ
đó
khuyến
cáo
kế
hoạch
SX
của
từng
địa
phương
đáp
ứng
sản
lượng
theo
nhu
cầu
thị
trường.
Nói
đến
trở
ngại
thị
trường
XK
tôm,
ông
Hồ
Quốc
Lực,
Tổng
GĐ
Cty
CP
Chế
biến
thực
phẩm
SAOTA
(Fimex)
cho
rằng:
Khó
dự
đoán
tình
hình
nguyên
liệu
trong
năm
2015
để
có
thể
chủ
động
kế
hoạch
kinh
doanh.
Bởi
tôm
nuôi
hiện
còn
bị
dịch
bệnh.
Trong
khi
hiện
nay
Indonesia,
Ấn
Độ,
Ecuador
đang
tăng
diện
tích
nuôi,
sức
cung
ứng
sẽ
tăng.
Vào
thời
điểm
này
họ
có
tôm
và
chào
bán
giá
rẻ.
Theo
ông
Lực,
những
khó
khăn
của
DN
chế
biến
XK
tôm
và
cá
có
khác
nhau.
DN
Việt
Nam
mua
bán
còn
phải
theo
người
mua
và
không
có
khả
năng
dẫn
dắt
người
tiêu
dùng.
Muốn
chuyển
hướng
làm
sản
phẩm
giá
trị
gia
tăng
để
tăng
khả
năng
tiêu
thụ
tốt,
nhưng
không
phải
DN
nào
muốn
cũng
làm
được.
Trong
số
các
mặt
hàng
thủy
sản,
còn
có
tôm
càng
xanh,
cá
rô
phi
dòng
gift
đều
có
thị
trường.
Hiện
nay
Ấn
Độ
nuôi
nhiều
tôm
càng
xanh.
Riêng
cá
rô
phi
có
thị
trường
lớn,
thời
gian
nuôi
ngắn
hơn
cá
tra,
chỉ
4-4,5
tháng
là
lấy
phi-lê.
Tuy
vậy
vấn
đề
quan
trọng
là
giống,
chúng
ta
còn
chậm
chân,
chưa
chủ
động
được
giống.
Mặt
khác,
nhu
cầu
tiêu
dùng
hàng
thủy
sản
trên
thế
giới
tăng
ở
mức
bình
thường
3-5%
và
chỉ
ngoại
trừ
năm
nào
tình
hình
kinh
tế
thế
giới
ổn
định
hay
năm
thiên
niên
kỷ…mới
hy
vọng
giá
có
thể
tăng
lên
cao
hơn.
Như
vậy,
ở
vùng
nuôi
tôm
ở
ĐBSCL
muốn
nâng
cao
sức
cạnh
tranh,
hạ
giá
thành
SX
tôm
nguyên
liệu,
Nhà
nước
cần
tiếp
tục
đầu
tư
cải
tạo
nâng
cấp
cơ
sở
hạ
tầng
vùng
nuôi,
yểm
trợ
các
giải
pháp
kỹ
thuật
hạ
thấp
tỷ
lệ
dịch
bệnh,
đầu
tư
xây
dựng
trung
tâm
ương
nuôi
con
giống,
nâng
cao
chất
lượng
tôm
giống.
Ông
Hồ
Quốc
Lực,
Tổng
Giám
đốc
Cty
CP
Chế
biến
thực
phẩm
SAOTA
(Fimex)
nhấn
mạnh:
“Việt
Nam
đang
nuôi
tôm
theo
VietGAP
là
đúng
hướng,
là
một
biện
pháp
để
“tự
răn
mình”.
Theo
hướng
này,
hiện
thời
Fimex
xây
dựng
vùng
nuôi
tôm
đáp
ứng
tiêu
chuẩn
chứng
nhận
theo
yêu
cầu
thị
trường.
Quy
hoạch
vùng
nuôi
có
ao
lắng,
ao
xử
lý
bùn,
các
công
trình
phụ
chiếm
đến
50%
diện
tích...,
đáp
ứng
theo
qui
trình
kỹ
thuật
nuôi
tôm
sạch”.
Theo
Hiệp
hội
Chế
biến
và
XK
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
XK
thủy
sản
trong
quí
1/2005
ước
đạt
1,27
tỉ
USD,
giảm
23%
so
cùng
kỳ
năm
2014
và
là
mức
giảm
mạnh
nhất
trong
5
năm
qua.
Trong
đó,
XK
tôm,
giảm
gần
30%,
cá
tra
giảm
18%.
Đây
là
hai
mặt
hàng
thủy
sản
chủ
lực
ở
ĐBSCL.