Giảm
FCR
luôn
là
mục
tiêu
của
ngành
NTTS
trên
thế
giới
và
là
một
trong
những
mối
quan
tâm
hàng
đầu
của
người
nuôi.
Giảm
FCR
đồng
nghĩa
với
việc
giảm
chi
phí
nuôi,
giảm
ô
nhiễm
môi
trường…
và
do
đó
mang
lại
lợi
nhuận
nhiều
hơn
cho
người
nuôi
cả
trước
mắt
lẫn
lâu
dài.
Cải
tạo
ao
kỹ
Trước
khi
bắt
đầu
vụ
nuôi,
cần
triệt
để
loại
bỏ
cá
tạp,
cua
còng,
tép…
có
trong
ao
để
giảm
sự
gia
tăng
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn
(FCR)
gây
ra
bởi
việc
tiêu
thụ
thức
ăn
từ
những
loài
không
mong
muốn
này.
Đối
với
ao
nuôi
tôm
không
thể
hoàn
toàn
diệt
tạp,
hoặc
cá
tạp
đã
có
trong
ao
còn
tôm
thì
phải
sử
dụng
các
biện
pháp
thủ
công
như
sàng
cho
thức
ăn
vào
dụ
rồi
vớt
ra
hoặc
sử
dụng
các
phương
pháp
bẫy
khác
để
loại
bỏ
cá
hoang
dã.
Con
giống
Con
giống
khỏe
mạnh,
tốc
độ
tăng
trưởng
nhanh
sẽ
làm
cho
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
tốt
và
do
đó
làm
giảm
FCR.
Ngược
lại,
những
con
giống
chất
lượng
kém
(cận
huyết,
dị
tật,
mang
mầm
bệnh,
còi
cọc,
không
đồng
đều…)
sẽ
dẫn
đến
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
kém
và
làm
cho
FCR
tăng
cao.
Do
đó,
để
nâng
hiệu
quả
nuôi
và
cải
thiện
FCR
cần
lựa
chọn
con
giống
ở
cơ
sở
uy
tín
và
phải
xét
nghiệm
kiểm
tra
chất
lượng
giống
trước
khi
thả
nuôi.
Con
giống
có
chất
lượng
tốt
là
con
giống
sạch
bệnh,
có
tốc
độ
tăng
trưởng
nhanh,
chất
lượng
thịt
phù
hợp
thị
hiếu
người
tiêu
dùng.
Thức
ăn
và
sử
dụng
thức
ăn
FCR
bị
ảnh
hưởng
bởi
nhiều
yếu
tố
trong
đó
có
chất
lượng
thức
ăn
và
cách
cho
ăn.
Để
thức
ăn
có
chất
lượng
giúp
thủy
sản
tiêu
hóa
tốt
và
đạt
hiệu
quả
cao,
thức
ăn
cần
đạt
được
những
tiêu
chí
sau:
Đồng
đều
về
kích
thước,
hình
dạng
và
màu
sắc,
ít
bụi,
bề
ngoài
mịn,
có
mùi
thơm
hấp
dẫn,
không
rã
trong
nước
sau
2
giờ,
không
chứa
tạp
chất,
nấm
mốc,
ẩm
ướt…
thức
ăn
phải
thu
hút
thủy
sản
bắt
mồi.
Đối
với
thức
ăn
tươi
khi
chế
biến
cần
rửa
sạch,
băm
hoặc
nghiền
vừa
cỡ
miệng
cá,
rồi
cho
ăn
ngay
khi
còn
tươi.
Các
sản
phẩm
nông
nghiệp
dùng
chế
biến
thức
ăn
cho
cá
phải
được
bảo
quản
an
toàn
không
bị
ẩm
và
nấm
mốc
gây
hại.
Những
sản
phẩm
đã
bị
nấm
mốc
cần
phải
thải
loại
nhằm
phòng
tránh
ngộ
độc
cho
vật
nuôi.
Một
trong
những
nguyên
nhân
làm
FCR
tăng
cao
là
việc
đổ
dư
thừa
thức
ăn
xuống
ao,
đặc
biệt
là
trong
trường
hợp
thức
ăn
chìm,
khó
quan
sát
như
thức
ăn
tôm.
Trong
những
ngày
môi
trường
biến
động,
DO
giảm
thấp,
cá,
tôm
bắt
mồi
kém,
nếu
không
để
ý
sẽ
bị
dư
thừa
nhiều
thức
ăn,
càng
gây
ô
nhiễm
môi
trường,
cá
bệnh
nhiều
thêm,
tỷ
lệ
chết
cao
hơn
và
do
đó
làm
cho
FCR
tăng
cao.
Vì
vậy,
không
nên
cho
ăn
no
thỏa
mãn
nhu
cầu
của
thủy
sản,
chỉ
nên
cho
ăn
no
tới
80
–
85%
nhu
cầu
để
đảm
bảo
chất
dinh
dưỡng
trong
thức
ăn
được
thủy
sản
hấp
thụ
triệt
để
hơn,
thải
ra
ngoài
môi
trường
ít
hơn.
Đối
với
các
loài
cá
hiền
(không
ăn
thịt
lẫn
nhau),
việc
cho
ăn
gián
đoạn
(một
số
ngày
ăn
xen
kẽ
một
số
ngày
nhịn
đói,
hoặc
một
số
bữa
nhịn
đói)
nên
được
lưu
ý
áp
dụng
phù
hợp
cho
từng
loài.
Việc
cho
cá
nhịn
đói
trong
một
thời
gian
thích
hợp
tạo
điều
kiện
cho
việc
hấp
thụ
thức
ăn
sau
đó
được
tốt
hơn,
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
và
làm
giảm
FCR.
Thời
gian
cho
ăn
cũng
là
một
yếu
tố
quan
trọng.
Bởi
tiêu
hóa
thức
ăn
là
một
quá
trình
tiêu
thụ
ôxy
hòa
tan
rất
lớn
vì
vậy
nên
chọn
thời
điểm
cho
ăn
mà
lúc
ôxy
hòa
tan
cao,
thường
là
buổi
sáng.
Không
nên
cho
ăn
quá
muộn
vì
càng
về
chiều
hay
tối
thì
ôxy
càng
giảm
dẫn
đến
tình
trạng
thiếu
ôxy
làm
thủy
sản
không
tiêu
hóa
thức
ăn
một
cách
hiệu
quả,
ảnh
hưởng
đến
FCR.
Vì
vậy,
cần
chọn
thời
điểm
cho
ăn
thích
hợp,
lúc
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
cao,
ngoài
ra
cũng
nên
xiphong
ao
định
kỳ
nhằm
gom
bỏ
chất
thải
của
thủy
sản,
thức
ăn
dừ
thừa
ở
đáy
ao
để
ổn
định
nước
ao.
Sử
dụng
sàng
để
kiểm
tra
lượng
thức
ăn
của
thủy
sản,
từ
đó
có
những
điều
chỉnh
phù
hợp.
Đối
với
tôm,
cần
theo
dõi
tiến
độ
lột
xác
của
tôm
để
điều
chỉnh
giảm
trong
giai
đoạn
lột
xác
và
tăng
sau
khi
tôm
lột
xong.
Định
kỳ
bổ
sung
chế
phẩm
sinh
học
(enzymes,
probiotics,
hỗn
hợp
vitamin,
khoáng,
chất
chiết
thảo
dược,
tỏi…)
vào
thức
ăn
thủy
sản.
Biện
pháp
này
có
thể
cải
thiện
được
độ
tiêu
hóa,
phòng
ngừa
dịch
bệnh,
nâng
cao
tỷ
lệ
sống
của
thủy
sản
và
do
đó
giảm
được
FCR.
Quản
lý
môi
trường
nuôi
Yếu
tố
quan
trọng
nhất
trong
quản
lý
môi
trường
nước
nuôi
đó
là
giữ
cho
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
(DO)
trong
nước
đáp
ứng
nhu
cầu
của
cá,
tôm.
DO
đối
với
cá
nước
lạnh
cần
cao
hơn
6
mg/l,
cá
nước
ấm
cần
cao
hơn
5
mg/l
và
với
tôm
cần
cao
hơn
4
mg/l.
DO
trong
nước
cung
cấp
khí
ôxy
cần
thiết
cho
hoạt
động
sống
của
động
vật
thủy
sản,
có
lợi
cho
sự
sinh
sôi
phát
triển
của
vi
sinh
vật
hiếu
khí,
thúc
đẩy
phân
giải
các
chất
hữu
cơ,
làm
giảm
các
chất
độc
hại,
ức
chế
hoạt
động
của
vi
sinh
vật
yếm
khí
có
hại,
tăng
cường
sức
miễn
dịch
của
cá,
tôm,
giúp
chúng
ít
bị
bệnh.
DO
thấp
có
tác
động
xấu
đến
khả
năng
bắt
mồi
và
tiêu
hóa
thức
ăn
của
thủy
sản.
Để
giảm
FCR,
cần
quản
lý
tốt
môi
trường
nuôi,
kiểm
tra
thường
xuyên
DO,
màu
nước.
Đối
với
người
nuôi
cá
lồng,
bè
trên
sông,
cần
lưu
ý
khoảng
cách
giữa
các
lồng,
vệ
sinh
lồng
định
kỳ,
tạo
sự
thông
thoáng
của
dòng
chảy,
tránh
lưu
cữu
mầm
bệnh
trên
vật
liệu
làm
lồng.
Kiểm
soát
các
yếu
tố
môi
trường
ao
nuôi
như
pH,
nhiệt
độ,
nồng
độ
khí
độc
NH3,
NO2,
NO3…
thường
xuyên
cũng
chính
là
cách
kiểm
tra
gián
tiếp
DO.
Nên
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
ngay
từ
đầu
giúp
quản
lý
tốt
môi
trường
nước
và
đáy
ao,
ngăn
ngừa
khí
độc,
ức
chế
vi
khuẩn
gây
hại…