Tôm,
cá
là
động
vật
biến
nhiệt,
thân
nhiệt
thay
đổi
theo
môi
trường
sống.
Vì
vậy,
nhiệt
độ
là
một
trong
những
yếu
tố
tác
động
nhiều
đến
hoạt
động
sinh
lý,
sinh
thái
và
nhu
cầu
dinh
dưỡng.
Ảnh
hưởng
Vào
mùa
đông,
khi
nhiệt
độ
dưới
khoảng
tối
ưu,
thủy
sản
sẽ
giảm
khả
năng
bắt
mồi,
tiêu
hóa
thức
ăn,
sức
đề
kháng,
hoạt
động
của
hệ
thống
thần
kinh.
Từ
đó,
ảnh
hưởng
đến
quá
trình
sinh
trưởng
và
phát
triển
của
chúng.
Hơn
nữa,
nhiệt
độ
xuống
thấp
cũng
là
điều
kiện
tốt
để
cho
vi
khuẩn,
virus
(nhất
là
virus
đốm
trắng)
gây
bệnh
phát
triển.
Bên
cạnh
đó,
nguy
cơ
thiếu
ôxy
trong
ao
nuôi
cao
do
nhiệt
độ
thấp
cùng
với
trời
ít
nắng
sẽ
làm
tảo
chậm
phát
triển,
quá
trình
quang
hợp
của
tảo
xảy
ra
cường
độ
thấp.
Đối
với
cơ
sở
sản
xuất
giống
Cần
thực
hiện
sản
xuất
đúng
theo
khung
lịch
mùa
vụ
đã
ban
hành.
Trong
đó,
tập
trung
vệ
sinh
trại,
tẩy
dọn
các
bể
chứa
lắng,
bể
lọc,
bể
ương,
bể
nuôi
vỗ
và
các
dụng
cụ
khác.
Cần
chắc
chắn
rằng
các
cơ
sở
phải
trang
bị
hệ
thống
nâng
nhiệt
để
đảm
bảo
luôn
duy
trì
nhiệt
độ
trong
bể
ương
ở
mức
khoảng
28
-
300C.
Bể
ương
tôm
đặt
ở
ngoài
trời,
bề
mặt
phải
được
phủ
lưới
và
che
chắn
cẩn
thận
để
tránh
các
tác
nhân
gây
hại
cho
tôm.
Đối
với
ao
ương
cá
hương,
từ
tháng
12,
người
nuôi
cần
chuyển
lên
hệ
thống
bể
ương
cá
giống
trong
nhà
để
chủ
động
nâng
nhiệt,
có
bổ
sung
sục
ôxy
liên
tục.
Ao
chuẩn
bị
thả
Ao
nuôi
trong
mùa
lạnh
cần
được
chọn
ở
nơi
khuất
gió
là
tốt
nhất,
bờ
ao
chắc
chắn
và
có
thể
giữ
mực
nước
ổn
định
>
2
m.
Ở
một
số
khu
vực
đón
gió
mùa
đông
bắc
liên
tục,
có
thể
làm
đáy
ao
phía
đông
bắc
sâu
hơn
và
cần
che
bạt
tránh
gió
trên
bờ
ao.
Khi
gió
lạnh
về,
khu
vực
bờ
này
sẽ
ấm
hơn
và
cá
sẽ
tập
trung
nhiều
hơn.
Chỉ
thả
giống
khi
nhiệt
độ
thực
sự
ổn
định,
không
thả
khi
điều
kiện
thời
tiết
đang
có
gió
lạnh.
Nhiệt
độ
nước
vận
chuyển
thủy
sản
cần
được
trại
giống
thuần
sao
cho
phù
hợp
với
nhiệt
độ
môi
trường
trước
khi
thả.
Sau
khi
thả,
nếu
có
xuất
hiện
những
cơn
mưa
thất
thường,
người
nuôi
cần
dùng
vôi
bột
rải
đều
trên
khắp
bờ,
mặt
ao
với
liều
lượng
2
kg/100
m2 để
khắc
phục
tình
trạng
pH
giảm
đột
ngột,
ổn
định
môi
trường
nước
ao.
Ao
đang
nuôi
Đối
với
ao
tôm,
cần
xây
dựng
các
ao
nuôi
có
nhà
bạt
che
phủ
để
kiểm
soát
nhiệt
độ
ổn
định.
Ao
nuôi
cá,
cần
tiến
hành
làm
khung
và
che
phủ
bề
mặt
ao
nuôi
bằng
nilon
sáng
màu.
Bên
cạnh
đó,
duy
trì
mực
nước
trong
ao
nuôi
từ
1,4
-
1,8
m,
hạn
chế
thay
nước.
Sử
dụng
các
loại
men
vi
sinh,
chế
phẩm
sinh
học
trong
quá
trình
nuôi
để
ổn
định
môi
trường,
giảm
khí
độc.
Định
kỳ
dùng
vôi
bột
hoặc
một
số
thuốc
sát
trùng
như
đồng
sulfat,
thuốc
tím,
muối,
BKC…
liều
lượng
và
cách
dùng
theo
hướng
dẫn
của
nhà
sản
xuất
để
ngăn
chặn
sự
xâm
nhập
của
mầm
bệnh.
Đặc
biệt
khi
nhiệt
độ
thay
đổi,
tôm
cá
sẽ
có
xu
hướng
di
chuyển
xuống
đáy
ao.
Tuy
nhiên,
đây
lại
là
nơi
nơi
tích
tụ
các
mùn
bã
hữu
cơ,
khí
độc,
nấm
và
vi
khuẩn
có
hại.
Vì
vậy,
cần
tăng
cường
quạt
nước,
đảm
bảo
cung
cấp
đầy
đủ
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
cho
các
tầng
nước,
hạn
chế
tình
trạng
stress
cho
thủy
sản.
Ngoài
quan
tâm
đến
môi
trường,
người
nuôi
cần
đặc
biệt
lưu
ý
đến
khẩu
phần
cho
thủy
sản.
Bởi
khi
nhiệt
độ
xuống
thấp,
cả
tôm
và
cá
đều
không
đòi
hỏi
một
lượng
thức
ăn
lớn
mà
chỉ
cần
đủ
để
duy
trì
cơ
thể
nên
nhu
cầu
sẽ
giảm
đi.
Nếu
cho
ăn
thừa
sẽ
làm
xấu
môi
trường
ao
nuôi,
tạo
điều
kiện
cho
các
mầm
bệnh
phát
triển.
Với
ao
tôm,
khi
nhiệt
độ
giảm
20C
thì
lượng
thức
ăn
cần
giảm
30
-
50%
lượng
thức
ăn
hàng
ngày
và
khi
nhiệt
độ
ổn
định
lại
cần
theo
dõi
khả
năng
bắt
mồi
để
điều
chỉnh
cho
phù
hợp.
Riêng
với
các
loại
cá,
tùy
từng
loại
sẽ
có
biện
pháp
điều
chỉnh
khác
nhau.
Một
số
loài
ăn
tạp
như
cá
tra,
rô
phi,
thời
gian
tiêu
hóa
trong
đường
ruột
hoàn
toàn
có
thể
lên
24
-
36
giờ.
Vì
vậy,
người
nuôi
có
thể
tính
toán
giảm
số
lần
cho
ăn
thay
vì
giảm
lượng
thức
ăn
mỗi
lần
sẽ
cho
kết
quả
tốt
hơn.
>> Người
nuôi
nên
thường
xuyên
theo
dõi
diễn
biến
thời
tiết,
tình
trạng
sức
khỏe
thủy
sản
và
các
yếu
tố
môi
trường
nhằm
phát
hiện
kịp
thời
những
hiện
tượng
bất
thường
để
có
biện
pháp
xử
lý
phù
hợp.
|